Saturday, December 28, 2013

Bán hàng thành công sau 60 giây!

Bán hàng không chỉ là một ngành nghề kiếm sống, nó còn là một “nghệ thuật”. Để trở thành bậc thầy trong việc bán hàng, bạn cần phải có “kỹ thuật”. Kỹ năng giao tiếp là cần thiết đối với mỗi nhân viên bán hàng. Giao tiếp với khách hàng là một nhân tố rất có giá trị đối với chúng ta trong bán hàng và marketing. Thực tế: Người tiêu dùng giờ đây có sự hiểu biết nhiều hơn so với trước đây. Do đó, chúng ta cần chú trọng hơn đến khách hàng trong tất cả những gì chúng ta kinh doanh và các phương thức marketing được áp dụng. Chúng ta cần hiểu rõ hơn về khách hàng, thu hút được sự chú ý của họ ngay trong phút nói chuyện đầu tiên. Để thực hiện được điều đó, bạn cần thu hút khách hàng bằng những câu hỏi thông minh. Để khiến cho khách hàng bị “cuốn” vào câu chuyện của mình, bạn nên hỏi càng nhiều càng tốt.
bán hàng thành công
Góc Kỹ Năng gợi ý cho bạn những câu hỏi hiệu quả nhất mà bạn nên sử dụng để thu hút khách hàng:
Câu hỏi gợi mở vấn đề (Open-ended “prompting” questions)
Khi giao tiếp với một khách hàng, bạn phải cố gắng để hiểu được những gì đang diễn ra trong thế giới và tâm trí của họ. Sau đó, khách hàng sẽ hiểu được và chấp nhận những ý kiến của bạn. Cách tốt nhất để làm việc này là đặt ra những giới hạn nghiêm ngặt trong khoảng thời gian nói chuyện với khách hàng. Hãy giữ nó dưới 60 giây. Bạn đừng bao giờ nói chuyện quá 60 giây mà không đưa ra một đề nghị nào để cả hai bên cùng đồng ý tiếp tục bàn thảo. Đầu tiên, sự đồng ý này sẽ xuất hiện khi bạn đưa ra những câu hỏi gợi mở vấn đề. Nhìn chung đó là những câu hỏi:
- Không thể đơn giản trả lời “Có” hay “Không”.
- Không dẫn dắt, kiểm soát hay cố gắng lôi kéo những người khác.
- Mở ra các chủ đề hội thoại mới.
- Bắt đầu với những từ “khi nào”, “điều gì”, “như thế nào”, “ở đâu”.
- Cần phải suy nghĩ trước khi trả lời.
- Động viên khách hàng hé mở những cảm giác của họ.
- Xây dựng mối quan hệ.
Câu hỏi đóng (Closed-ended question)
Đối lập với dạng câu hỏi gợi mở là dạng câu hỏi đóng. Các câu hỏi đóng, không giống như những câu hỏi mở, sẽ đặt một điểm kết cho một cuộc hội thoại và không đưa bạn đến gần hơn với cuộc gặp gỡ lần thứ hai. Vì vậy, bạn nên tránh những câu hỏi kiểu này, qua đó bạn sẽ thành công với công việc bán hàng trong 60 giây.
Một ví dụ của câu hỏi đóng có thể là: “Bạn rất quan tâm đến việc thu hút những khách hàng mới, không biết có đúng như vậy không?”. Thời điểm tốt nhất để bạn sử dụng những câu hỏi đóng đó là trong trường hợp bạn cần khẳng định hay xác nhận những gì bạn nghĩ có thực sự diễn ra trong tâm trí khách hàng hay không. Nhìn chung đó là những câu hỏi:
- Hữu ích để đưa ra những phản hồi trong cuộc hội thoại.
- Có thể được sử dụng để thu thập những thông tin cụ thể hay những lời xác nhận.
Câu hỏi làm rõ ý(Clarifying question)
Trong khi giao tiếp với khách hàng, nếu cần đảm bảo rằng bạn đã hiểu chính xác những gì khách hàng nói, bạn có thể sử dụng dạng câu hỏi làm rõ ý. Những câu hỏi này sẽ giúp ích bạn rất nhiều để có được sự chú ý của khách hàng trong 60 giây đầu tiên. Một câu hỏi làm rõ tốt có thể bắt đầu với: “Như vậy, theo tôi hiểu thì quý vị đang nói rằng ….”. Chú ý: Bạn nên bắt đầu câu hỏi làm rõ của mình với lời văn như vậy và sau đó diễn giải một cách sáng tạo những gì bạn nghĩ. Thật tồi tệ nếu bạn bắt chước nguyên văn những gì bạn nghe được từ phía khách hàng bởi kiểu nói này có thể được xem như một sự hạ cố, mỉa mai và thiếu tôn trọng. Nhìn chung đó là những câu hỏi:
- Đảm bảo sự nhất trí với khách hàng và chứng tỏ cho khách hàng thấy bạn hiểu chính xác những gì họ đã nói.
- Thể hiện dưới ngôn ngữ của bạn những gì bạn đã được nghe.
- Làm sáng tỏ sự khác biệt trong những từ ngữ đã được sử dụng.
- Làm rõ nghĩa của những từ ngữ đã được sử dụng.
Câu hỏi phát triển (Developmental question)
Một khi bạn làm rõ những gì khách hàng nói, bạn có thể sử dụng sau đó một số câu hỏi phát triển để chuyển cuộc hội thoại giữa bạn với khách hàng từ chỗ giao tiếp lôi kéo ban đầu đến sự hiểu biết thân thiện, nắm rõ được những gì khách hàng mong muốn. Tương tự, những câu hỏi kiểu này cũng sẽ giúp bạn thành công trong công việc bán hàng ngay tại 60 giây giao tiếp đầu tiên. Nhìn chung đó là những câu hỏi:
- Động viên khách hàng cho biết rõ thêm về những gì họ đã nói.
- Bắt đầu khiến cho khách hàng thể hiện cảm giác và tình cảm của mình về chủ đề hiện tại.
- Có được những hiểu biết sâu rộng hơn về những gì đang được trao đổi với khách hàng.
Câu hỏi định hướng (Directional question)
Bên cạnh đó, bạn cũng có thể sử dụng những câu hỏi định hướng để bán được hàng trong 60 giây đầu tiên. Những câu hỏi kiểu này sẽ hướng cuộc hội thoại tới một mức độ nhất định, qua đó giúp cho những vấn đề vướng mắc khác được hé mở. Những câu hỏi định hướng được xem như một tấm bản đồ cho cuộc hội thoại của bạn và nhờ vậy bạn có thể hiểu được những nhu cầu và mong muốn của khách hàng. Nhìn chung, đó là những câu hỏi:
- Chuyển cuộc hội thoại từ một chủ đề logic sang một chủ đề khác.
- Mời khách hàng tham gia vào việc trao đổi thông tin qua lại.
- Có thể được sử dụng để thay thế câu hỏi đóng trong trường hợp bạn buộc phải hỏi.
Bạn đừng rơi vào cái bẫy của việc sử dụng những câu hỏi định hướng để kiểm soát hay lôi kéo khách hàng theo bất cứ cách nào. Điều này sẽ huỷ hoại các mối quan hệ kinh doanh với khách hàng mà bạn đã dầy công gây dựng, đồng thời giảm thiểu tối đa cơ hội để bạn có được lần gặp gỡ tiếp theo.
Câu hỏi mang tính bày tỏ quan điểm (Opinion question)
Một dạng câu hỏi khác mà bạn có thể sử dụng để đảm bảo thời gian nói chuyện trong giới hạn 60 giây là câu hỏi mang tính bày tỏ quan điểm. Dạng câu hỏi này sẽ vô cùng hữu ích trong việc hé mở đâu là những chủ đề mà khách hàng ưa thích, và đem lại cho bạn nhiều hiểu biết sâu sắc về những nhu cầu riêng lẻ của một ai đó. Những câu hỏi quan điểm cũng còn là một cách thức để bạn đảm bảo rằng một ai đó sẽ thực sự gắn bó với cuộc hội thoại của bạn. Như một quy tắc chung, những câu hỏi quan điểm là câu hỏi:
- Đưa ra một câu hỏi thẳng thắn theo cách thức không đối chất.
- Để một ai đó nói chuyện thẳng thắn và cởi mở.
- Đưa ra cơ hội để chia sẻ tình cảm.
- Biểu hiện sự quý mến và tôn trọng một ai đó.
- Giúp đỡ mở rộng và kéo dài cuộc hội thoại.
Câu hỏi mang tính kiểm chứng xã hội (social proof question)
Cuối cùng, bạn có thể sử dụng dạng câu hỏi mang tính kiểm chứng xã hội nhằm đảm bảo thành công trong 60 giây. Đây là một cách gián tiếp để một người nhận ra rằng trường hợp của họ cũng tương tự như trường hợp cùa một người nào khác mà bạn đã từng làm việc và giao tiếp. Khi bạn đề cập và tham khảo tới một bên thứ ba, thái độ khách hàng sẽ tích cực và thân thiện hơn với những câu hỏi của bạn. Mặt khác, khi bạn đưa ra những câu hỏi kiểm chứng xã hội, rất có thể chúng sẽ không mấy liên quan đến chủ đề đang được thảo luận. Vì thế, những câu hỏi này đòi hỏi một sự khéo léo từ phía bạn. Nhìn chung, đó là những câu hỏi:
- Giới thiệu một bên thứ ba có liên quan đến chủ đề thảo luận.
- Có thể nâng cao sự tin cậy của một ai đó rằng bạn có thể hiểu được nhu cầu và mục đích của họ.
- Củng cố và giải toả sự băn khoăn, thắc mắc của một ai đó.
- Có thể được sử dụng để thể hiện những mối quan tâm hay các vấn đề vướng mắc trước khi chúng xuất hiện.
Những “kỹ thuật” trên đã phần nào giúp các bạn tự tin hơn trong việc chuẩn bị thuyết phục khách hàng trong 60 giây. Góc Kỹ Năng mong rằng những kiến thức này sẽ giúp bạn trở thành bậc thầy trong bán hàng.
nhận quàNLL biên soạn

Friday, December 27, 2013

Đặc điểm của không gian, thời gian trong thơ ca

Không gian và thời gian trong thơ ca, thuộc không gian thời gian nghệ thuật, là dạng tồn tại đặc biệt, có quan hệ mật thiết với không gian, thời gian tự nhiên. Nhưng cả hai kiểu không gian, thời gian này lại có những điểm khác biệt. Nếu như không gian, thời gian tự nhiên tồn tại một cách khách quan ngoài ý thức của con người thì không gian, thời gian nghệ thuật lại mang đậm dấu ấn chủ quan của chủ thể sáng tạo. Đó là một không gian, thời gian tinh thần của con người. Đó là không gian, thời gian sống mà con người cảm thấy. Hay nói cách khác không gian, thời gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ gợi lên trong trí tưởng tượng của chúng ta qua các tín hiệu ngôn từ và mang tính vận động rõ nét. Không gian, thời gian nghệ thuật không chỉ mang tính chủ quan mà còn mang tính tượng trưng, quan niệm. Nghĩa là chủ thể sáng tạo luôn tạo ra không gian, thời gian nghệ thuật để thể hiện một quan niệm nhất định của mình về thế giới và cuộc sống con người. Không những vậy không gian nghệ thuật còn mang một cấu trúc đặc biệt, nó gắn liền với điểm nhìn của con người trong tác phẩm văn học.

Ngôn ngữ thơ

Như chúng ta đã biết, ngôn ngữ là một hệ thống đơn vị vật chất phục vụ cho việc giao tiếp giữa người với người. Ngôn ngữ của mỗi dân tộc là một bộ mã chung, phổ biến. Nó mang những quy tắc sử dụng riêng. Ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ thường xuất hiện trong tác phẩm nghệ thuật ngôn từ là một mã phức hợp được cấu tạo từ ngôn ngữ tự nhiên. Chức năng thẩm mĩ của ngôn ngữ nghệ thuật được biểu hiện ở đặc trưng ngữ nghĩa và đặc trưng âm thanh. Tín hiệu ngôn ngữ ở tác phẩm nghệ thuật ngôn từ đã trở thành yếu tố tạo thành của hình tượng. Có thể nói ngôn ngữ nghệ thuật luôn đòi hỏi việc sử dụng âm thanh và ý nghĩa là hai yếu tố cơ bản tạo thành hình tượng nghệ thuật. Thực tế, ngôn ngữ nghệ thuật còn sử dụng cường độ, nhịp độ và tiết tấu từ âm thanh để diễn tả cảm xúc của tác phẩm. Trong tính hiện thực của nó, ngôn ngữ nghệ thuật bao giờ cũng tồn tại trong tác phẩm cụ thể, dưới dạng một thể loại cụ thể hoặc thơ, hoặc kịch, hoặc tiểu thuyết, hoặc truyện ngắn, hoặc bút kí v.v…

  
Trong tác phẩm nghệ thuật, ngôn từ bao giờ cũng đảm nhận chức năng là phương tiện, chất liệu để tạo ra những mạch truyền cảm; nó bao giờ cũng tìm sức sống của mình từ chất liệu đích thực gắn với hiện tượng muôn màu muôn vẻ của cuộc sống. So với ngôn từ tự nhiên thì ngôn từ nghệ thuật có hoạt động mới, giàu tiềm năng phát sinh các sắc thái, các ý nghĩa tâm lý một cách độc đáo. Đồng thời trong khi hướng tới những cung bậc khác nhau để tạo thành hình tượng, ngôn ngữ nghệ thuật luôn luôn kết tinh từ bề dày truyền thống văn hóa và cái đẹp từ bản thân nó.
Thơ ca là một mạch hệ thống ngôn từ được xác lập nhuần nhị từ ngôn ngữ. Thơ ca thuộc hệ thống “lời nói gây cảm xúc”, một hình thức gây cảm xúc vi diệu nhất. Thơ ca lại là lời nói có nhịp điệu, âm hưởng và sắc thái riêng – nhịp điệu và âm hưởng này dựa trên cơ sở của ngôn ngữ thực tế. Ngôn ngữ thơ là thứ ngôn ngữ có tính cách điệu, khác biệt so với ngôn ngữ hàng ngày và các loại ngôn ngữ nghệ thuật khác.
Ngôn ngữ thơ là một chuỗi đặc trưng về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp nhằm biểu trưng hóa, khái quát hóa hiện thực khách quan theo cách tổ chức riêng.
Thơ là một loại hình nghệ thuật ngôn ngữ cô đọng, súc tích nhất về từ ngữ và hình ảnh. Mỗi từ trong câu thơ có sức mạnh tiềm tàng, chứa đựng cái đẹp đẽ, cái tinh tế, cái sâu sắc. Chính vì thế ngữ nghĩa trong thơ ca phong phú hơn nhiều so với ngữ nghĩa trong ngôn ngữ giao tiếp đời thường và trong văn xuôi. Từ trong ngôn ngữ thơ tiếng Việt thường đa nghĩa. Khi sử dụng từ ngữ trong thơ không chỉ ở nghĩa đen, nghĩa gốc, nghĩa ban đầu mà nó còn có ý nghĩa mới tinh tế, thậm chí cùng một lúc nó mang nhiều ý nghĩa mà người ta gọi là nghĩa chuyển, nghĩa bóng hay nghĩa biểu trưng, ngôn ngữ trong thơ ca còn bao hàm cả tính ước lệ. Trong từ ngữ của thơ có những từ ngữ được sử dụng bởi nhiều phép chuyển nghĩa nhưng chủ yếu là ẩn dụ. Hoán dụ được dùng cả trong thơ và văn xuôi vì nó chủ yếu chuyển hóa tên gọi của đối tượng này để gọi đối tượng kia theo quy luật liên tưởng tiếp cận có liên quan nhân quả.
Và từ đặc biệt mang âm hưởng riêng, sắc thái riêng của bài thơ, là điểm ngời sáng trong bài thơ. Nó là sức nặng của bài thơ; từ ngữ trong thơ chứa đựng nhiều tiếng vang của cảm giác.
Ngôn ngữ thơ là một thứ ngôn ngữ bộc lộ thế giới chủ quan thiên về thế giới ấn tượng cảm xúc, cảm giác, những mặt biểu cảm thường đan chéo nhau chiếm những cấp độ nghĩa thiếu quan hệ nội tại trên bề mặt cú pháp. Thơ là nghệ thuật về thời gian; song song trong tư tưởng; chức năng mỹ học chiếm ưu thế trong các thông báo thơ, đồng thời với chức năng giao tiếp làm cho thông báo trong thơ đa nghĩa huyền bí vô cùng. Thơ hay là đạt tới mức “ý tại ngôn ngoại”. Càng hàm súc thì thơ càng thể hiện giá trị tiềm tàng của nó.
Ngôn ngữ thơ là một thứ ngôn ngữ ở đó trở nên duy nhất, tự chiếu sáng một “Ngôn ngữ kim cương”. Trong sự cố gắng muôn thưở là vượt lên chính mình, ngôn ngữ tìm thấy trong thơ là phương tiện tối ưu để lưu giữ - truyền đạt thông tin về bảo vệ môi trường giao tiếp. Và như vậy con người đã có thêm ngoài ngôn ngữ giao tiếp thông thường ra, một mã nghệ thuật nữa có khả năng lưu giữ an toàn và truyền đi không chỉ đầy đủ chính xác nội dung giao tiếp phải duy trì mà con truyền đi một cách rất riêng biệt, đặc sắc. Điều đó giải thích vì sao không có nền văn hóa nào không biết đến thơ, đồng thời cũng giải thích vì sao người ta khẳng định rằng sự sinh tồn thơ ca không kém gì sự sinh tồn của mỗi dân tộc. Bảo vệ ngôn ngữ dân tộc cũng là một cách bảo vệ dân tộc. Học giả Phạm Quỳnh từng nhận định: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”…

Khái niệm sự quy chiếu

Từ vựng trong hệ thống ngôn ngữ có ý nghĩa biểu vật. Ý nghĩa biểu vật của từ là loại sự vật, người, hành động, tính chất còn rất chung, chưa cụ thể hóa (dạng từ điển).  Trong hoạt động lời nói, chúng phải ứng với một sự vật, hành động, tính chất cụ thể, đó là chiếu vật hay còn gọi là quy chiếu (reference). Theo G.Jule “Tự thân các từ không quy chiếu đến cái gì cả. Con người mới làm ra cái việc quy chiếu đó. Thiết tưởng tốt hơn hết là coi sự quy chiếu như là một hành động trong đó một người nói hay người viết làm cho người nghe hay người đọc có thể nhận diện ra nó” [103, tr.43].


Vậy sự quy chiếu (hay chiếu vật) là sự tương ứng giữa từ (hoặc giữa các đơn vị ngôn ngữ) với các sự vật, con người, hoạt động, tính chất trong hiện thực được nói tới.
Theo G.Green thì “thuật ngữ chiếu vật được dùng để chỉ phương tiện nhờ đó người nói phát ra một biểu thức ngôn ngữ, với biểu thức này người nói nghĩ rằng nó sẽ giúp người nghe suy ra một cách đúng đắn thực thể nào, đặc tính nào, quan hệ nào, sự kiện nào anh ta định nói đến” [102, tr.37], Theo Đỗ Hữu Châu “Sự chiếu vật là sự tương ứng của các yếu tố ngôn ngữ (của các tín hiệu ngôn ngữ) trong diễn ngôn với sự vật, hiện tượng được nói tới trong một hoàn cảnh giao tiếp nhất định” [4, tr.231]. Còn theo G.Jule thì “Chúng ta, tốt hơn hết là cho rằng chiếu vật là một phương thức nhờ nó mà người nói và người viết dùng các hình thức ngôn ngữ nhằm làm cho người nghe hoặc người đọc nhận biết một sự vật nào đó” [103, tr.17]. Tác giả Nguyễn Thiện Giáp thì viết: “Quy chiếu là một hành động trong đó người nói hoặc người viết dùng các hình thức ngôn ngữ cho phép người nghe, người đọc nhận diện cái gì đó. Những hình thức ngôn ngữ ấy là những biểu thức quy chiếu [21, tr.28].
Khi đi vào văn bản, ta có thể bắt gặp sự quy chiếu hiện thực, ứng với hiện thực trong đời sống mà nhờ đó ta có thể tìm hiểu về lịch sử của một thời đã qua. Chẳng hạn, bức tranh về phong tục tập quan của nông thôn, làng quê Việt Nam được hiện lên rõ nét qua bài thơ của Đoàn Văn Cừ:
Cơm ngày hai bữa dọn bên hè
Mâm gỗ môi dừa, đũa mộc tre,
Gạo đỏ, cà thâm, vừng giã mặn
Chè tươi nấu đặc nước vàng hoe
                     (Đoàn Văn Cừ)
Tuy nhiên, cũng có những bài thơ có một vài hệ quy chiếu, tức chiếu vật khác nhau mà người nghe, người đọc cần có một sự nhạy cảm nhất định mới nhận ra hệ quy chiếu đó, như các bài thơ của Hồ Xuân Hương.
          Chẳng hạn như bài Mời trầu:
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi
Ở bài thơ này, không đơn giản nói chuyện quả cau miếng trầu mà ẩn chứa đằng sau đó còn có nhiều lớp nghĩa mà chúng ta không dễ gì khám phá, bởi thế không phải ai khi đọc cũng cảm nhận được. Đó là ý thức về một số phận, một kiếp người; giải bày về thân phận người phụ nữ Việt Nam nói chung trong xã hội phong kiến; sự ám ảnh và căm phẫn xã hội; ý nghĩa phồn thực và khát vọng tình yêu lứa đôi…
Nếu không có chiếu vật chúng ta không thể hiểu được nghĩa của phát ngôn và do đó không thể triển khai giao tiếp theo mục đích đặt ra nếu chúng ta không làm cho người nghe (người đọc) biết chúng ta đang nói đến cái gì cũng như người nghe (người đọc) không xác định phát ngôn mà mình tiếp nhận nói đến sự vật nào.
Theo G. Yule: “Sự quy chiếu, vì vậy gắn với mục đích, sự tin tưởng của người nói, đó là người nói nói ra muốn để người nghe nhận biết cái gì; người nghe có mong đợi để mà người nói nói ra không. Vì thế sự quy chiếu muốn thành công phải luôn gắn chặt với suy luận (inference), bởi vì giữa các từ với các thực thể khách quan không có mối quan hệ nào mà chỉ là quan hệ võ đoán” [103, tr.44].
Để nhận ra tính chiếu vật cần quan tâm đến những yếu tố sau: a. Người nói và người nghe trong hệ quy chiếu, b. Mục đích của hệ quy chiếu, c. Ngữ cảnh mà người nghe hiểu được hệ quy chiếu, d. Đối tượng tiếp cận của hệ quy chiếu.
Ví dụ: Một người đàn bà ngồi trên một chiếc ghế ở công viên và một con chó thân dài nằm đối diện với chiếc ghế. Một người đàn ông tiến đến và ngồi xuống chiếc ghế.
-         Người đàn ông:  - Chó nhà bà có cắn không đấy?
(Man)                         (Does your dog bite?)
-   Người đàn bà:   - Không đâu
(Woman)                  (No)
(Người đàn ông với tay âu yếm con chó. Con chó ngoạm vào tay người đàn ông)
-         Người đàn ông:  - Thế mà bà bảo chó nhà bà không cắn.
(Man)                            (Ouch! Hey! You said your dog doesn`t bite.)
-         Người đàn bà:  - Nó không cắn đâu. Nhưng đó đâu phải là chó nhà tôi.
(   Woman)              (He doesn`t bite. But that`s not my dog.)
(Trích ví dụ của Yule, bản dịch của Lù Thị Hồng Nhâm, tr.77)
Trong ví dụ trên sự quy chiếu của người đàn ông và người đàn bà không giống nhau. Người đàn ông có sự quy chiếu con chó là chỉ vào con chó đang nằm đối diện với người đàn bà. Trái lại người đàn bà lại có sự quy chiếu vào con chó của mình, chứ không phải con chó đang nằm đối diện với chiếc ghế của mình.       
                                                  TS. Hoàng Thúy Hà

Chỉ xuất và phương pháp chỉ xuất

Theo Jule: Sự chỉ xuất rõ ràng là một dạng của sự quy chiếu liên quan chặt chẽ tới ngữ cảnh của người nói, với một khu biệt cơ bản nhất giữa biểu thức chỉ xuất là ở “gần người nói” đối lại với ở “xa người nói”, [103, tr.30], hay nói cách khác, chỉ xuất là sự định vị khoảng cách gần hay xa người nói.

 
Chỉ xuất được thực hiện bằng con đường định vị. Định vị có nghĩa là chỉ rõ không gian – thời gian của sự vật, sự kiện, hiện tượng được nói tới. Định vị không gian, thời gian bao giờ cũng có tọa độ làm mốc còn gọi là tọa độ chuẩn. Tọa độ chuẩn đó là thời gian – không gian trong đó khi cuộc hội thoại diễn ra.
Thông thường, trong ngôn ngữ, người ta dùng ba yếu tố chỉ xuất: a. Yếu tố chỉ xuất nhân xưng: tôi, b. yếu tố chỉ xuất không gian: ở đây, chỗ này, chỗ nọ, chỗ kia.v.v.. c. yếu tố chỉ xuất thời gian: bây giờ, hiện tại, lúc này, ngày mai, hôm qua.v.v.
Sự chỉ xuất rõ ràng là một dạng của sự quy chiếu liên quan mật thiết đến ngữ cảnh của người nói, với một sự khu biệt cơ bản nhất giữa biểu thức chỉ xuất là ở “gần người nói” để đối lại với ở “xa người nói”, hay nói một cách khác. Chỉ xuất là sự định vị khoảng cách gần hay xa người nói. Theo tác giả Nguyễn Thiện Giáp thì “chỉ xuất là một thuật ngữ kỹ thuật dùng để chỉ một trong những cái cơ bản nhất mà chúng ta làm với các phát ngôn. Đó là sự chỉ trỏ bằng ngôn ngữ. Bất cứ hình thức ngôn ngữ nào dùng để chỉ trỏ đều được gọi là biểu thức chỉ trỏ hay các yếu tố trực chỉ” [21, tr.30].
Ví dụ:
Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn trông sao sao mờ
Câu ca dao có sự quy chiếu về sử dụng phương tiện chỉ xuất thông qua sự định vị: Từ chỉ thời gian được sử dụng ở đây « Đêm qua » chỉ là một sự định vị về thời gian diễn xướng, không tương ứng với thời gian hiện thực vốn tồn tại khách quan theo cách tri nhận thông thường. « Bờ ao » là sự định vị không gian của ca dao, không gian diễn xướng.

KỸ NĂNG GIAO TIẾP CƠ BẢN DÀNH CHO SINH VIÊN

 1 . MỞ ĐẦU
Giao tiếp là một hoạt động cơ bản, một nhu cầu không thể thiếu của con người. Để tồn tại và phát triển, hàng ngày, hàng giờ, con người luôn thực hiện việc giao tiếp; mỗi con người đều phải giao tiếp với cộng đồng, với thế giới xung quanh để hoàn thành chức trách của mình. 
Khi bước vào môi trường đại học, có nghĩa là sinh viên đã bước vào một môi trường mới, khác nhiều với các môi trường giao tiếp khác. Ở môi trường đại học sinh viên đã là những người trưởng thành chứ không còn như khi ở phổ thông. Đặc biệt ở môi trường đại học, sinh viên được nhìn nhận là những con người có học vấn, có nhận thức, và có trình độ văn hóa cao; đối tượng  quan hệ giao tiếp thường xuyên, chủ yếu của sinh viên là những người có tri thức: thầy cô, bạn bè sinh viên...  Vì thế đòi hỏi sinh viên phải có những kỹ năng giao tiếp cơ bản, thiết yếu nhằm biết cách xây dựng được các mối quan hệ nơi trường lớp và trong cuộc sống, tạo nên một bầu không khí thật sự tốt đẹp văn minh, lịch sự.

2. NỘI DUNG
2. 1. Bất kỳ một hoạt động nào cũng cần có một số kỹ năng, kỹ xảo nhất định, không biết cách làm, không tự động hóa được một số thao tác hoạt động nhất định sẽ kém hiệu quả. Hoạt động giao tiếp là “một hệ thống những quá trình có mục đích và động cơ trong hoạt động tập thể, thực hiện các quan hệ xã hội và nhân cách, các quan hệ tâm lí và sử dụng những phương tiện đặc thù, mà trước hết là ngôn ngữ” (Theo A.A. Lêonchiev [1,tr.168]); kĩ năng giao tiếp là khả năng nhận thức nhanh chóng những biểu hiện bên ngoài và những biểu hiện tâm lí bên trong của đối tượng và bản thân chủ thể giao tiếp; là khả năng sử dụng hợp lí các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, biết cách tổ chức điều chỉnh, điều khiển quá trình giao tiếp nhằm đạt mục đích giao tiếp. Các kĩ năng giao tiếp có vai trò rất quan trọng đối với tất cả chúng ta. Nhà học giả người Mỹ, Kinixti đã từng nói: “Sự thành công của một người chỉ có mười lăm phần trăm phải dựa vào kỷ thuật chuyên ngành, còn tám mươi lăm phần trăm phải dựa vào những quan hệ giao tiếp và tài năng xử thế của người ấy.” [10, tr.6]. Chúng ta đã ngày càng nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của các kỹ năng giao tiếp, thế nhưng trong thực tế cuộc sống có rất nhiều cá nhân đang rất chật vật về năng lực này. Đã có rất nhiều báo chí phản ánh những về những cử chỉ bất lịch sự diễn ra chung quanh ta, đặc biệt ở lớp trẻ mới lớn lên: gặp người già đến nhà, con cái không chào; lên xe buýt, thanh niên tranh chỗ ngồi - chỗ ngồi tốt, không nhường chỗ người già, phụ nữ có con nhỏ; ra đường xô đẩy người khác không xin lỗi; nói năng thì thô lỗ, bỗ bã luôn mồm chửi tục, chửi đổng; ăn mặc thì lôi thôi, tự động nhận xét bừa bãi về người khác ở nơi công cộng; có những hành vi ứng xử thiếu cẩn trọng; sống ích kỉ…
Trong những năm gần đây, chất lượng đào tạo đại ở Việt Nam đã dần dần được nâng cao, nhưng theo rất nhiều nguồn tin thì các nhà tuyển dụng đa quốc gia vẫn chê khả năng giao tiếp của sinh viên Việt Nam còn yếu. Vì vậy, hơn ai hết, mỗi sinh viên cần phải được kịp thời cũng cố và bổ sung những kỹ năng giao tiếp cơ bản nhất nhằm hoàn thiện nhân cách cá nhân, kết nối với cộng đồng trước mắt là để phục vụ tốt cho việc sống và học tập; đó là bảy kỹ năng sau: 1. Kỹ năng hòa nhập với cộng đồng; 2. Kỹ năng quản lý sự nhận thức của bản thân; 3. Kỹ năng lựa chọn lựa ngôn từ và điều chỉnh giọng nói; 4. Kỹ năng giao tiếp phi ngôn ngữ;  5. Kỹ năng lắng nghe; 6. Kỹ năng thấu hiểu sự khác biệt và giải quyết những xung đột; 7. Kỹ năng trình bày. Chúng tôi xin được phân tích cụ thể bảy kỹ năng này ở phần tiếp theo.
2.2. Bảy kỹ năng giao tiếp cơ bản
1. Kỹ năng hòa nhập với mi người
Mỗi con người chúng ta không thể sống khi bị tách rời khỏi cộng đồng, chính vì lẽ đó năng lực giao tiếp giữa người và người chính là năng lực xây dựng những cầu nối. Khi chúng ta giao tiếp với người khác, chúng ta phải là xây dựng được cầu nối quan hệ tích cực để tạo ra một môi trường sống, học tập hữu ích cho cả hai bên đó chính là mục tiêu quan trọng nhất. Trong cuộc sống, muốn trở thành người giao tiếp tốt, chúng ta cần thực hiện thuần thục các quy tắc, chuẩn mực xã hội. Các quy tắc, chuẩn mực giao tiếp, cách đối nhân xử thế ở đời rất đa dạng phong phú; tuy nhiên, có một số nguyên tắc, chuẩn mực phổ biến  trong giao tiếp xã hội như: xử thế lịch sự, luôn quan tâm đến người khác, ý thức bản thân luôn ở trong tư thế chuẩn bị sẵn sàng có thái độ trân trọng chính mình, biết điều và tự tin, điều chỉnh phong cách giao tiếp phù hợp với phong cách mà đối tác ưa thích nhất; xử lí mọi việc phải thấu tình đạt lí, luôn giữ chữ tín trong trong cuộc sống, xây dựng niềm tin bằng cách thể hiện tính nhất quán trong lời nói và việc làm, xây dựng những cầu nối cảm thông và hợp tác, dựa trên sự tin cậy lẫn nhau và những mối quan tâm hay sở thích giống nhau… Chúng ta cần biết đặt mình vào vị trí của đối tác giao tiếp để cư xử cho đúng mực; điều gì mình không muốn hoặc không làm được thì cũng không bắt người khác phải làm; dùng cách nói tế nhị, có lý, có tình, tránh dùng cách nói vỗ mặt sỗ sàng; tránh chạm vào lòng tự ái của người khác, khiến người ta phải buồn lòng đau khổ; tránh dùng cách nói mỉa mai cay độc; lúc cần thiết biết dùng cách nói triết lý để giảm bớt nỗi bất hạnh của người khác. Làm được những điều như vậy thì có nghĩa là chúng ta đã có kỹ năng hòa nhập với mọi người.
2.  Kỹ năng quản lý nhận thức của bản thân
Sự nhận thức có tác động mạnh mẽ hơn sự thật và việc nhận thức của mỗi người về người giao tiếp với mình có ảnh hưởng rất lớn trong giao tiếp, thế nhưng rất nhiều người thường chuyển thông điệp sang nhận thức ngay tức thì và thường làm như vậy mà không hề có ý thức gì cả đồng thời hình thành những ấn tượng, cảm giác, đưa ra những quyết định hay những kết luận một cách máy móc, đó có nghĩa là không kiểm soát được nhận thức của mình. Con người nếu không kiểm soát được nhận thức của mình là một điều vô cùng tai hại trong giao tiếp, tai hại nhất là sẽ để lại một hình ảnh xấu về mình trong nhận thức của người giao tiếp với mình. Vì vậy, mỗi con người nên rèn cho mình có được kỹ năng quản lí nhận thức của bản thân.  Muốn thế khi giao tiếp cần lưu ý: trước hết là phải chuyển thông điệp đúng lúc, khi đối tác của chúng ta có một số nhận thức không chính xác về một vấn đề nào đó chỉ vì tầm nhìn của họ chưa bao quát toàn bộ sự việc chúng ta nên bắt đầu từ quan điểm của đối phương trước và giúp họ dần nhận ra toàn cảnh vấn đề để họ thấu tình đạt lí, không có cảm giác bị hạ bệ, có thái độ tế nhị đối với những điểm dị biệt cá nhân, chú tâm đến lời nói, giọng nói, thái độ cử chỉ và kiểu cách của mình. 
 3. Kỹ năng chọn lựa ngôn từ  và điều chỉnh giọng nói
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp chủ yếu của con người. Nhờ ngôn ngữ người ta có thể trao đổi với nhau mọi loại thông tin, như: diễn tả hành động, sự vật, sự việc, trạng thái, tình cảm, những mong muốn, những suy nghĩ. Hiệu quả của giao tiếp bằng ngôn ngữ phụ thuộc vào nội dung của ngôn ngữ, tính chất của ngôn ngữ, điệu bộ khi nói. Trong lúc giao tiếp một số từ ngữ có khả năng tạo ra một phản ứng mạnh mẽ nào đó. Khi viết lách việc chọn từ ngữ cũng như phong cách thể hiện là các yếu tố quan trọng hàng đầu. Khi giao tiếp qua điện thoại thì giọng nói đóng vai trò quyết định. Khi giao tiếp trực diện, cử chỉ là quan trọng nhất, kế đến là giọng nói, và cuối cùng là những từ ngữ được sử dụng.
 Để có được kỹ năng này cần cẩn trọng đối với từ ngữ, cố gắng điều khiển giọng nói của mình để đạt mục tiêu khi giao tiếp, biết sử dụng một phong cách diễn cảm để tạo hiệu quả.
4.  Kỹ năng tận dụng hiệu quả của giao tiếp phi ngôn ngữ
Nếu lời nói và chữ viết (ngôn ngữ) là phương tiện giao tiếp cực kì quan trọng trong đời sống xã hội thì giao tiếp phi ngôn ngữ cũng có ý nghĩa quan trọng không kém. Mỗi ánh mắt, nụ cười, cử chỉ, hành động… đều có ý nghĩa của nó và là phương tiện giúp những người tiến hành giao tiếp hiểu được nhau. Một nghiên cứu cho thấy rằng, trong giao tiếp thông qua hình thức nói, thì tác động của từ ngữ chỉ chiếm 30 – 40%, phần còn lại là tác động của giao tiếp phi ngôn ngữ, bao gồm: nét mặt, nụ cười, ánh mắt, cử chỉ, hành động, trang phục, không gian giao tiếp… Giao tiếp phi ngôn ngữ phản ánh chân thật và đầy đủ các mối quan hệ, do đó, chúng ta cần tuân thủ các nguyên tắc sau đây để tận dụng hiệu quả của giao tiếp phi ngôn ngữ, nhằm không chỉ giúp người ta hiểu được nhau, mà còn giúp hoàn thiện các mối quan hệ, giúp con người sống đẹp hơn, có ý nghĩa hơn: phát huy việc tiếp xúc bằng mắt một cách thích hợp để cho mọi người biết mình thực sự thích thú khi giao tiếp với họ; luôn nở nụ cười làm cho cuộc đời đẹp hơn, mọi người cảm thấy ấm áp thân thiện, gần gũi với nhau hơn; đừng vô tình có những cử chỉ thái độ dễ gây hiểu lầm; hãy làm cho cuộc giao tiếp bằng ngôn ngữ hiệu quả hơn bằng cách sử dụng kèm theo những điệu bộ, cử chỉ khi nói; luôn thể hiện sự thích thú lắng nghe người khác khi giao tiếp và điều đặc biệt nên nhớ là đứng hay ngồi cũng phải ngay ngắn, chững chạc, trông thoải mái tự tin, nhưng cũng đừng quá cứng nhắc, căng thẳng và trịnh trọng. 
5. Kỹ năng lắng nghe
Chúng ta có thể đều đã biết, lắng nghe là kỹ năng cơ bản và bí quyết giúp thành công trong giao tiếp,chúng ta có kỹ năng lắng nghe sẽ đặt được mình vào vị thế kẻ mạnh, trở thành người dễ gần, dễ mến.Vì lắng nghe, khác với nghe ở chỗ, nghe là một quá trình thụ động, trong đó chúng ta đón nhận tất cả các âm thanh đến tai mình còn lắng nghe là một quá trình chủ động; lắng nghe bao gồm việc sử dụng các kiến thức và kinh nghiệm hiện có để hiểu thông tin mới. Lắng nghe giúp ta thu thập được nhiều thông tin để hiểu và giải quyết vấn đề; giúp ta hiểu người khác và ứng xử phù hơp. Biết lắng nghe các ý tưởng sáng tạo sẽ nảy sinh nhiều hơn khi các cuộc giao tiếp cởi mở. Nhưng đây là một kỹ năng khó và rất nhiều người chưa biết lắng nghe. Lý do mà chúng ta khó tạo được cho mình kỹ năng lắng nghe có thể có rất nhiều lý do. Có những nguyên nhân chủ quan thuộc về người nghe như: sự xao nhãng, nghe qua loa, phân tán chú ý; cảm nhận tiêu cực về đề tài; chỉ nghĩ về mình; cảm nhận tiêu cực về nguời nói… Cũng có thể nguyên nhân là do phía nguời nói mức độ quan tâm thấp đối với người nghe. Hay nguyên nhân xuất phát từ sự khác nhau về tốc độ truyền và nhận tin ( Trung bình nói 125 – 150 từ/phút; đọc nhanh gấp 2-3 lần nói; người nghe xử lý thông tin nhanh gấp 2 -3 lần người đọc; con người suy nghĩ nhanh hơn từ 10-20 lần họ nói…)
Để có được kỹ năng lắng nghe, đòi hỏi chúng ta phải: tập trung chú ý vào nguời nói; tự gợi mở hiểu biết cho mình khi nghe; lắng nghe gắn với quan sát cách ứng xử. Cần phải chú ý tới những thông điệp thông qua cách ứng xử của đối phương, vì nó có thể thống nhất hoặc không thống nhất với lời nói của đối phương.
Chúng ta cũng cần phải lưu ý rằng, sử dụng kỹ năng lắng nghe là nhằm để thực hiện ba mục đích: 
Thứ nhất là lắng nghe để thu thập thông tin. Để tìm kiếm dữ liệu hoặc các vấn đề mà ta cần biết. Chúng ta cần phải chú ý đến các cử chỉ, điệu bộ, giọng nói để chắt lọc thông tin chính xác, cần thiết đồng thời chủ động nghe và lái câu chuyện theo mục đích của mình bằng một số phương pháp như : Đặt câu hỏi; phương pháp gợi mở - phương pháp khống chế; phương pháp cân bằng - phương pháp xoay chuyển ...
Thứ hai là lắng nghe để giải quyết vấn đề. Đòi hỏi người nghe phải có khả năng phân tích, tổng hợp. Một số thủ thuật nhằm lắng nghe để giải quyết vấn đề là:  ghi nhanh những gợi ý để phản hồi, cố gắng đoán trước được ý nghĩ của họ, tổng kết lại toàn bộ câu chuyện, sau đó phân tích và đưa ra thông tin phản hồi.
Thứ ba là lắng nghe để thấu cảm. Mọi người đều muốn người khác lắng nghe mình. Việc thấu hiểu hoàn toàn rất khó nhưng vẫn có thể hiểu, chia sẻ được với người khác. Lắng nghe để thấu cảm đòi hỏi khéo léo, tế nhị, có hiểu biết và đặc biệt có sự tin tưởng. Vì vậy người nghe phải cố gắng không ngắt lời, tỏ ra hiểu, thông cảm với nói, chờ thời điểm thích hợp mới trình bày ý kiến phản hồi của mình. Muốn lắng nghe để thấu cảm người nghe phải dùng câu hỏi để hiểu sâu hơn suy nghĩ của người khác.
6. Kỹ năng thấu hiểu sự khác biệt và giải quyết những xung đột
Trong một tập thể mỗi một con người đều có những nét khác biệt, đồng thời là sự xuất hiện của những cuộc xung đột giữa các cá nhân trong nội bộ tổ chức nguyên nhân chính là do năng lực giao tiếp quá kém. Vì vậy đòi hỏi mỗi chúng ta phải thấu hiểu được sự khác biệt và có khả năng giải quyết những xung đột. 
Sự xung đột nó có cội nguồn sâu xa là ở sự khác biệt. Khi giao tiếp gặp vấn đề, nguyên nhân thông thường là do khác nhau về nhận thức hoặc khác nhau về giao tiếp. Để giảm thiểu các xung đột cũng chúng ta phải thấu hiểu sự khác biệt bằng các tìm hiểu những phong cách giao tiếp và lối suy nghĩ khác nhau, không phản ứng lại với thái độ quá khích và nhận biết lối suy nghĩ của người đối diện là thiên về cụ thể hay trừu tượng. Giao tiếp tốt đóng vai trò rất quan trọng trong việc giảng hòa. Để hoàn thiện giao tiếp chúng ta cần phải trước hết là tự nhận thức bản thân và tự nhận trách nhiệm. Đây là những bước đầu tiên phải làm để giải quyết xung đột. Thật khó có thể làm đối phương thay đổi, nhưng nếu bạn tự điều chỉnh cách cư xử của mình thì người khác cũng sẽ có phản ứng tích cực hơn. Tiếp theo hãy giả định điều tốt nhất.  Nếu chúng ta không có chứng cứ rõ ràng thì đừng bao giờ đặt ra nhiều nghi vấn. Và hãy tự hỏi mình có phải đang cố tình cãi cọ chỉ để lẩn tránh một điều gì đó, chẳng hạn nói lời xin lỗi? Hoặc tranh luận chỉ nhằm thỏa mãn tính tự phụ hay sự kiêu căng. Kế tiếp hãy nghĩ xem mình có bị điều gì tác động không. Đừng nên xem thường những tác động ngoại cảnh. Khi bị căng thẳng mệt mỏi hay đang giận dữ, bạn có thể xử sự không đúng mực. Phải cư xử như người lớn, giữ bình tĩnh và nói chuyện trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau trong cuộc sống; kiểm soát cảm xúc, dù giận dữ đến đâu cũng nên  “tiên trách kỉ hậu trách nhân”; lắng nghe và không vội đánh giá hay đưa ra những giả định; tìm hiểu vấn đề, đặt câu hỏi để bảo đảm rằng mình thật sự hiểu điều đối tác đang nói, chịu khó tìm hiểu mọi khía cạnh của vấn đề; cung cấp đầy đủ thông tin để "đối phương" có thể hiểu quan điểm của mình. Cuối cùng là nói những điều mình đang nghĩ và thể hiện một cách rõ ràng và nở nụ cười mang tính hài hước, ý nhị để làm nguội "cuộc chiến".
7. Kỹ năng trình bày
 Việc trình bày cho chúng ta cơ hội tốt nhất để tạo ra một ấn tượng mạnh mẽ. Vì vậy chúng ta phải đầu tư nhiều thời gian và công sức để chuẩn bị thật tốt để có thể trình bày hấp dẫn. Để trình bày tốt cần xác định mục tiêu của chúng ta khi chuẩn bị bài phát biểu; làm cho những điểm chính của bài trình bày dễ nhớ hơn; đừng kết thúc bài trình bày bằng phần đặt câu hỏi và trả lời; khi trình bày cần tránh sự lúng túng bằng cách giấu đi nỗi lo lắng của bạn, biết khi nào bắt đầu, trả lời câu hỏi ngay lập tức. Các nguyên tắc cần phải rèn luyện là: lời văn ý tứ phải rõ ràng giúp người nhận hiểu được đúng thông tin muốn truyền đạt và có thể thực hiện công việc với những thông tin ấy; nên đi thẳng vào vấn đề, nêu bật các nét chính của các vấn đề cần thông báo, báo cáo và trao đổi thảo luận. Không sa vào những chi tiết không cần thiết, không lặp lại nội dung đã trình bày, quyết định sử dụng ý tưởng đúng lúc, loại bỏ từ thừa, nói với tốc độ vừa phải, không pha trò khi không ai cười; loại bỏ những từ vô nghĩa, và đặt ra nhiều câu hỏi liên quan đến nhiều người khác; cần phải đúng, chính xác, không sai lỗi chính tả, không sai các con số, giá cả, ngày tháng… ; phải có đầy đủ những nội dung, những phần, những điều kiện, điều khoản cần thiết; các ý, các phần trong cần phải nhất quán với nhau; lời lẽ phải lịch sự, nhã nhặn, hình thức trình bày cẩn thận, đẹp, sáng sủa; nên cẩn trọng, không trình bày về những điều mình không nắm chắc.
3. KẾT LUẬN
Trên đây là bảy kỹ năng giao tiếp mà sinh viên cần phải trang bị ngay khi còn ở trong môi trường đại học. Việc có được các kỹ năng này sẽ giúp sinh viên tự tin khẳng định vị trí của mình trong giao tiếp với mọi người đồng thời cũng có nghĩa là tạo dựng nên một hình ảnh đẹp về người sinh viên trong xã hội ngày nay – là những con người có lối sống đẹp, sống có ý nghĩa. Tuy nhiên đó mới chỉ là những kỹ năng cơ bản trong giao tiếp, còn trong tương lai để thực sự thành công trong các môi trường làm việc khác nhau đòi hỏi sinh viên còn phải trang bị thêm nhiều kỹ năng giao tiếp nữa; đó là các kỹ năng giao tiếp nơi công sở, chúng tôi sẽ trình bày ở chuyên luận lần sau.
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Anh (chủ biên), Hoạt động giao tiếp nhân cách
2. Bovec C.L. and J.V. Thill (1998) – Business Communication Today.
3. Dale Carnegie - dịch giả Nguyễn Hiến Lê (2008), Đắc nhân tâm, NXB trẻ
4. Guffey M. E (2000) – Business Communication: Proces and Product.
5. J.E. Lisa Meyer – Report Writing.
6.  Lâm Ngữ Dương (1994) Tinh hoa xử thế - NXB tổng hợp Đồng Tháp
7. Guffey M. E.. (2000) Business Communication: Process and Product.
8. Mã Ngân Xuân, Viên Lệ Bình (2008), Tâm và thuật trong đối nhân xử thế, NXB Hải Phòng
9. J.E. Lisa Meyer, Report Writing.
10. Đoàn Hồng Vân (chủ biên) Giao tiếp trong kinh doanh và cuộc sống.

Thời gian nghệ thuật

 Thời gian nghệ thuật là thời gian mà ta có thể thể nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với độ dài của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm, với chiều thời gian là hiện tại, quá khứ hay tương lai. Người nghệ sĩ có thể chọn điểm bắt đầu, điểm kết thúc, có thể chọn điểm nhìn từ quá khứ, hiện tại hay tương lại, có thể chọn độ dài trong một khoảnh khắc hay nhiều thế hệ, nhiều cuộc đời. “Thời gian là đối tượng, là chủ thể, là công cụ miêu tả − là sự ý thức và cảm giác về sự vận động và đổi thay của thế giới trong các hình thức đa dạng của thời gian xuyên suốt toàn bộ văn học” [ 59, tr.203]. 
                                                                            TS. HTH 

Ngôn ngữ - xã hội

Các nhân tố xã hội ảnh hưởng lớn đến sự tiến hóa của ngôn ngữ; vai trò của nó là mức độ tiếp xúc hay chồng chéo giữa các giá trị xã hội và cấu trúc của ngôn ngữ. Tất nhiên cấu trúc ngôn ngữ và cấu trúc xã hội không phải lúc nào cũng tương thích. Rất nhiều các quy tắc ngôn ngữ không có mối quan hệ song phương với các giá trị xã hội; chúng là một bộ phận của cơ chế ngôn ngữ, đòi hỏi sự tinh tế mà người nói cần có khi sử dụng để diễn đạt các ý định phức tạp của mình bằng các tín hiệu ngôn ngữ theo tuyến tính. Vì thế kỹ năng giao tiếp có tiêu chuẩn xã hội chung và các thành viên có được kỹ năng giao tiếp chính là do sự trải nghiệm từ đời sống xã hội. Các cá thể giao tiếp không thể quay lưng với các tiêu chuẩn chung này mà phải vừa học, tiếp thu, đồng thời vừa góp phần bổ sung, thanh lọc để hoàn chỉnh kỹ năng. Sở dĩ có sự khác nhau về kỹ năng giao tiếp ở từng cá nhân là bởi liên quan đến thái độ, nhận thức, khả năng sử dụng cũng như cách lập luận về những tiêu chuẩn chung mang tính xã hội này của mỗi cá thể. Khi đánh giá một lời nói, một câu nói “ổn hay không ổn” là nhằm chỉ ra rằng, lời nói của người đó khi phát ra có phù hợp với ngữ cảnh và tiêu chuẩn xã hội hay không.

Các biến thể gần hơn với cấu trúc bề mặt thường là tiêu điểm của sự tác động xã hội. Thực tế là các giá trị xã hội chỉ được quy cho các quy tắc ngôn ngữ khi có biến thể. Người nói thường không sẵn sàng chấp nhận rằng hai cách diễn đạt khác nhau, thực tế là có cùng một nghĩa và họ thường có xu hướng quy các nghĩa khác nhau cho chúng. Nếu một nhóm người nói nào đó sử dụng một biến thể ngôn ngữ cụ thể nào thì các giá trị xã hội quy cho nhóm đó cũng sẽ được chuyển sang biến thể sẵn có. Nếu có một tập hợp thống nhất các quy tắc ngôn ngữ được dùng để diễn đạt một số nghĩa nhất định thì ngôn ngữ có thể được xem như một công cụ trung lập. Nhưng trong quá trình biến đổi, dứt khoát sẽ có các quy tắc khả biến và các vùng biến thể này có xu hướng len lỏi khắp hệ thống theo kiểu làn sóng lan tỏa. Điểm xuất phát của một biến đổi ngôn ngữ cụ thể nào đó thường nằm trong một nhóm xã hội thu nhỏ duy nhất. Nếu nhóm xã hội này càng lớn thì sự cộng hưởng sẽ tăng theo cấp số nhân. Và, với các thế hệ nối tiếp nhau thì dạng mới sẽ có hiệu ứng lan tỏa ra vòng ngoài rộng hơn và đi đến các nhóm khác.
Ngôn ngữ có những quy tắc khả biến (variable rules) mà việc sử dụng chúng nhằm cung cấp những chứng cớ quyết định về các vấn đề của cấu trúc ngôn ngữ và vai trò của chúng trong sự tiến hóa của ngôn ngữ. Nhưng ngôn ngữ cũng có rất nhiều quy tắc bất biến: đó là những quy tắc mang tính phạm trù (categorical rules). Có một số lĩnh vực của phân tích ngôn ngữ mà ngay cả những bước đầu tiên tìm hiểu các quy tắc bất biến cơ bản cũng không thể thực hiện được nếu chúng ta không chú ý đến bối cảnh xã hội của sự kiện ngôn từ.
Điều đặc biệt ngôn ngữ học khẳng định tính xã hội của sự nói năng. Chức năng cơ bản của lời nói là truyền đạt ý nghĩa của từ ngữ và ý nghĩa ngữ pháp của chung xã hội. Đồng thời, trong hoàn cảnh giao tiếp cụ thể, lời nói còn truyền đạt một số thông tin mang tính đặc thù, biểu thị đặc trưng tập quán xã hội của người nói. Ví dụ có một phát ngôn:
-         “Bây giờ là 10 giờ rồi”
Nếu tách ra khỏi văn cảnh mà xét ở mặt cấu trúc thì đây là một câu đúng về cấu trúc ngữ pháp tiếng Việt, chứa nội dung thông báo về thời gian của một hiện tại bây giờ là “10 giờ”. Nhưng thực tế ngôn ngữ trong giao tiếp không đơn giản như vậy. Ngữ nghĩa của một phát ngôn nó còn liên quan đến các yếu tố: Chủ thể giao tiếp (phát ngôn là của ai?), thời gian và không gian (Phát ngôn nói trong hoàn cảnh nào?), khách thể giao tiếp (phát ngôn nói với ai, nói cho ai nghe).
Nếu như phát ngôn này là của một người khách đi trên đường, trả lời một người khách qua đường khác khi anh này hỏi: “Xin hãy cho biết bây giờ là mấy giờ rồi ạ?”. Thì nội hàm của nó chứa một phát ngôn thông báo về một mốc thời gian cụ thể. Nhưng nếu phát ngôn đó là của một cô gái, nói với một chàng trai, khi chàng trai đến chơi nhà và đã ngồi khá lâu, thì nó lại không còn là một thông báo nữa mà lại là một phát ngôn nhắc nhở…
 Như vậy, ứng với từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể, chủ thể - người giao tiếp sẽ sử dụng các phát ngôn phù hợp, và khách thể giao tiếp phải hiểu nội dung của phát ngôn trên theo từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.

Ngôn ngữ - văn hóa

Mọi sự kiện lời nói đều có thể được coi là bao gồm một số thành tố, và việc phân tích chúng nhằm phát triển một khía cạnh dân tộc học của lời nói. Có thể phân biệt rõ bảy loại thành tố hay nhân tố cấu thành có liên quan đến sự kiện lời nói đó là 1. Một người gửi (người nói); 2. Một người nhận (người nghe); 3. Một hình thức thông điệp; 4. Một kênh; 5. Một bộ mã; 6. Một chủ đề; và 7. Khung cảnh (setiing) (diễn trường (scene), cảnh huống (situation)). Tập hợp bảy loại hình nhân tố này là cái khung ban đầu, khởi nguyên cho hình thức của một thông điệp, hay hình thức đặc trưng của một lớp thông điệp. Là một sự kiện có tính miêu tả và có tầm quan trọng đặc biệt như một vấn đề thẩm mỹ và phong cách. Dù được đặt trong mối quan hệ nguồn của một bộ mã, trong quan hệ với một ngữ cảnh riêng biệt, trong quan hệ với một nội dung quy chiếu cụ thể. Những khác biệt mang tính xuyên văn hóa trong tập hợp các kênh cũng được nhiều người biết đến, không chỉ ở việc có hay không có văn tự, mà cả ở sự phát triển tinh tế đến toàn diện của những kênh công cụ.

  
 Giữa các phạm trù bản địa và các hình thức của hành động nói chung và hành động ngôn từ nói riêng có mối liên quan rõ rệt. Bởi vì cả hai sẽ phản ánh thực chất trật tự văn hóa xã hội của cuộc sống địa phương. Có mối liên quan giữa sinh hoạt và tư duy trong các nền văn hóa: những phản ánh về hành động của con người lệ thuộc vào sự thâm nhập và cách hiểu về môi trường văn hóa xã hội của họ. Ngôn ngữ hoạt động cũng giống như tư duy ngôn ngữ học đến nay chưa được hiển ngôn hóa cho mọi người ở những vùng khác nhau trên thế giới bởi tính chất vùng miền còn thể hiện rất rõ. Cả hai chắc chắn đều có xu hướng phản ánh những quan điểm chiếm ưu thế ở địa phương về một bản chất nhất định nào đó của những con người đang sử dụng ngôn ngữ.
Có một chiều cạnh văn hóa xã hội và các phạm trù bản địa phải được phát hiện, cùng với những thuộc tính giải thích của chúng và tầm quan trọng của việc sử dụng, phạm trù này hay khác trong một tình huống. Nhân tố Chủ đề hướng vào sự tìm hiểu hệ thống tôn ti từ vựng của các ngôn ngữ được một nhóm người phát ngôn bao gồm các đặc ngữ và nội dung của mọi phát ngôn đã được quy ước hóa, để tìm kiếm chứng cớ và tri thức về điều có thể nói được. Trong một phạm vi khác, điều này mang tính chất mở rộng việc nghiên cứu ngữ nghĩa cần thiết cho mọi sự nghiên cứu lời nói. Nhân tố khung cảnh là một thành tố cơ bản và phức tạp, được coi là nền tảng cho phần lớn những thành tố còn lại. Tuy nhiên, tính thành tố (constittuecy) của nó không dễ xác định.  Vì vậy, phải xét đến tính xã hội của các cá thể sử dụng “các quy tắc” và các phương tiện” của xã hội để hành động. Hành động ngôn ngữ có mối liên quan chặt chẽ đối với vai trò phản ánh của hành động. Vừa với tính cách kết quả, vừa với tính cách nguyên nhân của các hình thức xã hội của con người. Mỗi người có thể có những dạng tính cách riêng biệt và theo đó họ sẽ có phong cách giao tiếp riêng biệt, nhưng mỗi cộng đồng đều có một cơ sở đánh giá bằng những tiêu chuẩn văn hóa mang tính địa phương. Chẳng hạn mỗi dân tộc có một nghi thức chào gặp và tạm biệt riêng. Người Hán, cùng với Zai Jian (tái kiến – “Gặp lại”) có thêm lời dặn dò ( Đi chậm thôi). Người Nga cùng với lời chào là lời chúc “lên đường may mắn”. Còn người Việt chúng ta cùng với lời “đi nhé” “tạm biệt”, “về nhé” là lời chúc (“Đi (hoặc) về mạnh khỏe nhé!” ) hoặc lời hẹn, lời mời (“Khi nào rỗi lại tới chơi nhé”) .v.v…
Đề cập đến cơ sở văn hóa, chúng ta không thể không lưu tâm đến biểu tượng văn hóa. Biểu tượng là một cái gì đó mang một ý nghĩa cụ thể được các thành viên của một cộng đồng người nhận biết. Biểu tượng văn hóa có thể là một âm thanh, một đồ vật, một hình ảnh, một hành động của con người, hay bất cứ một ký tự nào đó trong một trang viết nào đó...  Biểu tượng văn hóa thay đổi theo thời gian và cũng khác nhau, thậm chí trái ngược nhau trong những nền văn hóa khác nhau.  Ví dụ:  Gật đầu: “đồng ý” ở hầu hết các quốc gia , nhưng lại là “không đồng ý” ở Hy Lạp, Bungari, Thổ Nhĩ Kỳ; Nhướng lông mày “Đồng ý” ở Thái Lan và 1 số nước ở châu Á, lại là “Xin chào” ở Phillipines; Nháy mắt “Tôi có bí mật muốn chia sẻ với anh nè!” ở Mỹ , châu Âu ; Là dấu hiệu tán tỉnh người khác giới ở một số quốc gia khác; Mắt lim dim “Chán quá!” hay “Buồn ngủ quá!” ở Mỹ. Trong khi ở Nhật, Thái Lan và Trung Quốc lại là: “Tôi đang lắng nghe đây.”…
 Ý nghĩa tượng trưng là nền tảng của mọi nền văn hóa, nó tạo cơ sở thực tế cho những cá nhân trải nghiệm trong các tình huống xã hội và làm cuộc sống trở nên phong phú.

Ngôn ngữ - tâm lý

Tất cả các phát ngôn đều xuất hiện một cách tương phản trong các ngữ cảnh, nhưng đối với nhiều từ vựng và hầu hết các đơn vị lớn hơn của lời nói, khung ngữ cảnh phải được tìm kiếm không phải trong khối dữ liệu ngôn ngữ thông thường mà là trong bối cảnh của các hành vi. Cách nghĩ về ngôn ngữ, hành động của con người và tính chủ thể đều gắn bó chặt chẽ với nhau. Để nói về cuộc sống, không những đòi hỏi các mệnh đề (propositions) phải có giá trị chân lí, mà hơn thế nữa còn đòi hỏi phải biết các ý định giao tiếp (communicative intentions) của những con người đang nói. Vì vậy, những ý nghĩa của ngôn từ của chúng ta chuyển tải không những lệ thuộc vào nội dung của những điều chúng ta nói, mà con lệ thuộc vào việc chúng ta là ai và chúng ta hi vọng người đối thoại với mình nhận thức được cái gì.

 Một người phải thiết lập một cách tương hỗ những cách thức và những môi trường hành vi thích hợp với lời nói, và một tập hợp những đơn vị ngôn từ xuất hiện trong chúng; phải tìm ra các chiều cạnh của sự tương phản và những quy tắc sử dụng, cho dù là thuần túy ngữ nghĩa (sở biểu) hay liên quan đến các nội dung và chức năng khác. Các tập hợp thường không được tri giác theo quan điểm ngôn ngữ học hình thức, dù bao gồm nhiều loại khác nhau về hình thức.
Chẳng hạn, trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử có hai câu thơ sau:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Nếu xét theo hình thức ngôn ngữ hai câu thơ cực tuyệt này là vô lý hết sức! Tại sao gió lại có thể “theo lối gió”, mây lại có thể “theo đường mây” được cơ chứ? Quy luật tự nhiên là gió thổi mây bay cơ mà!
Để hiểu và tiên đoán trước hành vi, các ngữ cảnh mang một ý nghĩa tri nhận chúng ta phải hiểu cách sử dụng một hình thức ngôn ngữ nhận diện được nhiều ý nghĩa. Một ngữ cảnh có thể ủng hộ nhiều ý nghĩa. Khi một hình thức được sử dụng trong một ngữ cảnh, nó loại trừ những nghĩa có thể có đối với ngữ cảnh đó trừ những nghĩa mà hình thức đó có thể chỉ ra; ngữ cảnh này không quan tâm đến những nghĩa có thể có đối với hình thức này trừ những nghĩa mà ngữ cảnh đó có thể ủng hộ. Nghĩa thực tế tùy thuộc vào sự tương tác của hai yếu tố trên.
Một điểm khác cũng quan trọng không kém đó là vai trò tri nhận của lời nói không phải là tất cả hay không gì cả, mà là vấn đề cái gì, ở đâu và khi nào. Về mặt tri nhận, lời nói quan trọng trong một số hoạt động này hơn là trong các hoạt động khác, ở một số thời điểm này hơn là các thời điểm khác, đối với một số người này hơn là các người khác, đối với một số xã hội này hơn là một số xã hội khác.
Mối quan tâm tới lời nói trong những bối cảnh của hành vi dẫn tới việc phân tích những mô hình cá nhân trong những cảnh huống bản địa cụ thể. Nếu dựa vào một ngữ pháp, chúng ta không thể hiểu được vai trò của các tập quán lời nói trong  hành vi ngày nay, chúng ta cũng không thể làm như vậy khi dựa vào một cảnh huống thực nghiệm khác lạ đối với văn hóa. Chúng ta cũng không thể đánh giá dựa theo những miêu tả được phân loại bởi các tập quán lời nói này và những tập quán khác. Sự phân tích cần phải có căn cứ. Chúng ta cũng cần nhận biết những mô hình lời nói sẵn có trong một bối cảnh cụ thể nào đó. Và, chúng hoạt động như thế nào, ở đâu và khi nào? Nguyên tắc nghĩa là sự sử dụng một cách có hiệu lực khi chúng ta nghiêm túc nghiên cứu vai trò của những tập quán ngữ nghĩa trong hành vi.
Sự miêu tả những tập quán ngữ nghĩa sẽ phụ thuộc vào các ngữ cảnh sử dụng để định rõ những khuôn khổ quan yếu, những tập hợp các đơn vị và các chiều cạnh của sự tương phản. Hơn nữa, các cá nhân và các nhóm có thể bất đồng về hành vi là kết quả thông qua cách sử dụng ngôn từ trung gian. Vì vậy, phân tích vai trò của lời nói trong hành vi tri nhận dẫn đến việc phân tích bối cảnh dân tộc học của lời nói.
Đặc biệt là hành vi biểu cảm. Có một phương diện tri nhận của hành vi biểu cảm trong chừng mực mà nó tiền giả định sự chia sẻ một bộ mã, sao cho các tập quán ngữ nghĩa không làm cạn kiệt hoặc suy giảm vai trò tri nhận của lời nói. Tương tự, có một phương diện biểu cảm trong phong cách nhận thức của một cá nhân hay một nhóm người, và nhìn chung, tất cả các hiện tượng lời nói đều có thể được một người nghe hiểu như những hiện tượng biểu cảm của người nói. Lời nói cũng là phương diện của nhân cách.
Có những sự khác biệt rất rõ rệt trong hành vi ngôn ngữ cá nhân. Nếu chúng ta mở rộng tầm nhìn ra ngoài phạm vi thông thường của những mô tả ngôn ngữ học đến danh mục đầy đủ của những tập quán ngôn ngữ truyền thống, đến những thói quen ngôn ngữ tái diễn đều đặn và những đặc trưng mang tính tình thế của hành vi ngôn ngữ hàng ngày, thì những biến đổi trong sự nắm vững của cá nhân sẽ rất rõ rệt.
Con người không chỉ sống trong mỗi một thế giới khách quan của các sự vật, cũng không chỉ sống trong thế giới của các hoạt đông xã hội như vẫn thường nghĩ, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào một ngôn ngữ cụ thể vốn là phương tiện giao tiếp trong xã hôi của họ. sẽ chỉ là ảo tưởng nếu cho rằng con người có thể thích nghi với thực tại về cơ bản không cần sử dụng ngôn ngữ và rằng ngôn ngữ chỉ đơn thuần là một phương tiện thứ yếu trong việc giải quyết các vấn đề cụ thể của giao tiếp hay tư duy. Sự thật của vấn đề ở đây là cái thế giới “thực” ấy phần lớn được in hình một cách vô thức trên nền những thói quen của ngôn ngữ cộng đồng đã làm cho chúng ta có những cách lựa chọn như thế. (Edward Sapir dẫn theo [94, tr.67]
Đã từ lâu các nhà sinh học và tâm lí học đã suy đoán rằng sở dĩ thế giới phát triển rất đa dạng là bởi thuộc tính sinh học các loài khác nhau và do có các tác nhân kích thích giác quan cũng khác nhau. Nhưng vì có khả năng thần kinh nên các loài cảm nhận được tất cả những sự vật hiện tượng đã và đang diễn ra

Chỉ xuất không gian

Nói đến chỉ xuất không gian là nói đến khoảng cách gần hay xa theo định vị của người nói. Đây là vị trí tính từ chỗ nhìn của người nói có thể xác định cả về phương diện tâm lý lẫn phương diện vật lý.

Chỉ xuất~không gian, lì khoảng cách tâm lí trong thực tại. Để định vị không gian phải có điểm gốc. Điểm gốc về không gian là vị trí không gian của người nói trong giao tiếp, đó là vị trí gần hay xa giữa người nói so với người nghe trong giao tiếp. Khi người nói ở đâu thì đó là điểm gốc để định vị điều được nói tới, như: ở đây, chỗ này, chỗ kia, ở đó. Ví dụ:
Đến đây thì phải ở đây
Bao giờ bén rễ xanh cây mới về.
Từ đây là yếu tố chỉ xuất khoảng không gian tương ứng với vị trí của người nói so với người nghe.
Cho tới nay, người ta có thể phân biệt không gian thành ít nhất ba loại: a. Không gian nhận thức (perpetual space); b. Không gian khái niệm (conceptual space); c. Không gian toán học (mathematical space)…. Và mỗi loại không gian cho thấy một ý nghĩa khác nhau rất lớn tới độ không bao giờ có thể nhất trí với một giả định để chỉ rõ cái gì đó đang hiện hữu và có thể được gọi một cách thích đáng là không gian. Ở đây, không gian nghệ thuật là chỉ xuất mà chúng tôi sẽ đi sâu vào nghiên cứu.