Friday, December 27, 2013

CÁC BIỂU HIỆN CỦA LỊCH SỰ CHUẨN MỰC TRONG XƯNG HÔ

TS. Vũ Tiến Dũng
Khoa Ngữ Văn

Abstract. The expression of politeness within the language behaviour is attracting the interests of the
linguistics in general and fragmatic linguistics in particular. Politely addressing in Vietnamese communication is
under the strong pressure of community politeness which has clear expressions such as clearness and
reassonableness. Modesty in addressing, which is considered as the principle of addressing politely in
communication, is the way to show the community politeness.
Tóm tắt. Những biểu hiện của lịch sự trong ứng xử ngôn ngữ đang thu hút được sự quan tâm của giới nghiên
cứu ngôn ngữ học nói chung và ngữ dụng học nói riêng. Xưng hô lịch sự trong giao tiếp tiếng Việt chịu áp lực
mạnh của lịch sự chuẩn mực mà biểu hiện cụ thể là khéo léo và đúng mực. Khiêm nhường trong xưng hô là con
đường để thực hiện lịch sự chuẩn mực, nó được hiểu như là nguyên tắc để xưng hô trong giao tiếp đảm bảo tính
lịch sự.
1. Đặt vấn đề
 Qua khảo sát và phân tích ca dao, tục ngữ, thành ngữ, chúng tôi nhận thấy rằng ứng
xử lịch sự của người Việt bao gồm bốn nội dung: Lễ phép, đúng mực (thuộc bình diện lịch sự
chuẩn mực) và khéo léo, khiêm nhường (thuộc bình diện lịch sự chiến lược). Bài viết nhỏ này
nhằm đi sâu tìm hiểu hành động xưng hô để thấy được rằng xưng hô trong tiếng Việt gắn với
bình diện lịch sự chuẩn mực nhiều hơn.
2. Các biểu hiện của lịch sự chuẩn mực trong xưng hô
2.1. Lễ phép trong xưng hô
Trong tiếng Việt, xưng hô lịch sự trước hết là phải lễ phép. Xưng hô lễ phép thể hiện
sự tôn kính những người có tuổi tác cao, những người có vị thế lớn, những người có uy tín
trong mối tương quan với người nói. Người nói phải biết tính toán, lựa chọn những từ ngữ
xưng hô trang trọng, hợp chuẩn phù hợp với vai giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp và mối quan hệ
thân – sơ giữa người nói và người đối thoại để sử dụng cho thích hợp. Xưng hô không lễ phép
với người vai bậc trên, những người có uy tín cũng dễ dẫn đến thái độ vô lễ (hay xấc xược,
hỗn láo). Tuy nhiên quá làm ra vẻ lễ phép lại có thể trở thành thái độ khúm núm, thiếu tự
nhiên, xưng hô sẽ có nguy cơ khuôn sáo, xơ cứng làm mất đi tình thân thiện, sự gần gũi trong
quan hệ giữa các cá nhân trong cộng đồng. Xưng hô lễ phép là rất cần thiết nhưng cần phải có
chừng mực để tránh những hạn chế có thể nảy sinh từ đó. Trong những cuộc thoại thường
nhật, người nói phải xưng hô lễ phép với các bậc cao niên, lão niên ; con cái phải xưng hô lễ
phép với bố mẹ; học sinh phải xưng hô lễ phép với các thầy cô giáo; nhân viên (ít tuổi hơn)
phải xưng hô lễ phép với thủ trưởng; con cháu phải xưng hô lễ phép với người thuộc độ tuổi ở
bậc chú, bác mình… Xưng hô lễ phép có chừng mực sẽ tạo nên được tính lịch sự tôn trọng
trong giao tiếp.
2.2. Đúng mực trong xưng hô
Lịch sự chuẩn mực trong xưng hô còn được biểu hiện ở tính đúng mực. Xưng hô đúng
mực là cách thức xưng hô thích dụng với vai của người bậc trên trong mối quan hệ với vai
người đối thoại thuộc bậc dưới hoặc ngang vai. Xưng hô đúng mực còn biểu hiện ở cách thức
sử dụng các từ xưng hô phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp và khoảng cách xã hội giữa người nói với người nghe. Xưng hô đúng mực là cách thức xưng hô hợp chuẩn, tuân theo những ước
định hoặc chế định và có tính khuôn mẫu trong tiếng Việt. Chẳng hạn, người giáo viên thường
tự xưng mình là cô hay thầy và gọi học sinh là em ; mẹ tự xưng là mẹ và gọi con gái, con trai
của mình là con ; khi một ai đó tự xưng mình là ông, bà, thì phải gọi đối tác là cháu. Những
cách xưng và hô của người trên đối với người dưới như thế được đánh giá là hợp chuẩn, là
đúng mực.
Trong gia đình, gia tộc, xưng hô được quy định khá nghiêm ngặt. Em của bố bao giờ
cũng được gọi là chú, em trai của mẹ bao giờ cũng được gọi là cậu và hình thành nên các cặp
xưng hô: cậu – cháu, chú - cháu dù rằng cậu và chú có ít hơn tuổi cháu v.v... Vợ và chồng là
những người bình quyền nhau, nhưng nếu xưng hô theo kiểu như bạn bè, mày – tao, tớ – cậu,
mình – bạn… thì thường được coi là không đúng mực, vi phạm chuẩn mực trong xưng hô.
Người bậc trên xưng hô không đúng mực thì bị đánh giá là người hoặc là có thái độ kiêu
ngạo, hoặc là có thái độ trịch thượng, thiếu tôn trọng người bậc dưới.
Xưng hô đúng mực là biểu hiện của sự tôn trọng thể diện của người bậc dưới, hay của
người bình quyền, hay của bạn bè, tức của những người vai dưới hoặc ngang vai. Xưng hô đúng
mực còn là cách thức xưng hô nhằm tạo ra tình thân hữu, rút ngắn khoảng cách giữa người nói
với người nghe. Giữa hai người vốn chưa quen biết, còn xa và còn lạ, phải xưng hô theo chuẩn
của lễ phép, nếu có cơ hội chuyển sang xưng hô theo chuẩn của đúng mực thì có thể chuyển đổi
sang kiểu quan hệ quen biết và gần gũi mà lúc ban đầu chưa thể có được. Xưng hô đúng mực
trong giao tiếp tạo nên được tính lịch sự thân thiện.
2.3.Phương châm trong xưng hô 
Xưng hô gắn với lịch sự trong tiếng Việt luôn hướng tới một phương châm “xưng phải 
khiêm, hô phải tôn”, tức là khiêm nhường trong xưng hô. Xưng hô khiêm nhường là cách thức 
chung của xưng hô lễ phép và xưng hô đúng mực. Khiêm nhường là khiêm tốn đối với mình 
và tôn vinh, đề cao người trong giao tiếp. Cặp xưng hô hợp chuẩn của giáo viên với học sinh, 
sinh viên ít tuổi hơn giáo viên thường là thầy – em, cô - em, thầy – tên riêng, cô - tên riêng, 
thầy – các em, cô - các em…, nhưng trong lớp học hiện nay ở nhiều trường, giáo viên thường 
xưng hô một cách khiêm nhường với học sinh, sinh viên như tôi – các em, tôi – các anh, các 
chị, tôi – các bạn, tôi – tên riêng… Xưng hô khiêm nhường cũng mang tính phổ biến trong gia 
đình, gia tộc người Việt hiện nay. Chẳng hạn, khi bố, mẹ xưng hô với con cái dùng các cặp từ 
xưng hô: bố – con, mẹ – con là họ đã nhấn mạnh đến quan hệ quyền lực và thân thiện. Khi 
con cái đã trưởng thành, bố, mẹ thường chuyển sang xưng hô với con bằng các cặp từ xưng 
hô: tôi – anh, tôi – chị là họ đã nhấn mạnh đến sự bình đẳng hơn (khiêm) nhưng cũng có 
khoảng cách trong quan hệ với con cái. Trong một số cơ quan nhà nước, các nhân viên 
thường gọi thủ trưởng (nam giới) của mình là cụ với ý nghĩa tôn kính, cao quý chứ hoàn toàn 
không có nghĩa già cả. Trong xã hội Việt Nam xưa, từ cụ dừng trong xưng hô thường chứa 
đựng hai nét nghĩa: cao tuổi và tôn quý. Ví dụ sau là một minh chứng : 
Lạy cụ ! Thật không ngờ hôm nay cụ Hồng lại quá bộ đến chơi với em. 
 (Vũ Trọng Phụng) 
Xưng hô khiêm nhường là một nét đẹp trong văn hoá giao tiếp của người Việt chúng 
ta. Tuy nhiên trong giao tiếp, xưng hô khiêm nhường quá mức sẽ đặt người đối thoại vào tính 
thế khó xử và trong nhiều trường hợp họ buộc phải phản đối cách xưng hô ấy. Đoạn thoại 
giữa Hàn và Tơ trong truyện ngắn Một chuyện Xuvơnia sau đây là một ví dụ: 
Hàn mừng rỡ : - À, quên đấy nhỉ? Nhưng tôi hỏi cho cô thì cô cũng phải nghĩ thế nào chứ… nhỉ? 
- Cháu giả công 
- Không. Tôi chả lấy công đâu. Nhưng cô không được xưng bằng cháu với tôi như thế, 
tôi thẹn chết. Tôi với cô chỉ bằng tuổi nhau thôi. Năm nay cô bao nhiêu tuổi nhỉ ? 
- Cháu…. 
- Không có lệ xưng cháu 
Tơ gục mặt xuống cánh tay để giấu miệng đi cười, nũng nịu : 
- Thế xưng bằng gì được? 
- Bằng tôi, hay bằng em thì càng… thú. 
 (Nam Cao)
Đối lại, xưng hô không khiêm nhường dễ bị đánh giá là thiếu lễ độ, làm mất đi thiện 
cảm từ phía người đối thoại. Chẳng hạn, học trò tự xưng là tôi với thầy cô giáo là không 
khiêm nhường. Quá chú ý đến sự khiêm nhường hoặc không khiêm nhường trong xưng hô 
đều có ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả trong tương tác xã hội. Cho nên xưng hô khiêm 
nhường cũng cần phải có chừng mực mới đạt được hiệu quả mong muốn trong tương tác. 
Xưng hô lễ phép, đúng mực là những biểu hiện của lịch sự chuẩn mực trong tiếng Việt. 
Cách thể hiện sự khiêm nhường trong xưng hô là con đường để đạt được lịch sự chuẩn mực, 
nó thuộc về lịch sự chiến lược. Các biểu hiện về lịch sự đó chỉ có ý nghĩa thật sự trong xưng 
hô khi người nói ứng xử bằng một thái độ chân thành. Người nghe có thể nhận biết sự chân 
thành trong xưng hô của người nói qua những yếu tố kèm lời như thái độ, cử chỉ, động tác… 
và bằng chính cả sự nhạy cảm của người nghe nữa. Không chân thành, người nói có cố gắng 
xưng hô lễ phép, khiêm nhường, đúng mực đến đâu đi chăng nữa cũng sẽ bộc lộ sự sáo rỗng 
và giả tạo trong lời nói của mình, và trong trường hợp này hiệu quả giao tiếp thường là trái 
với sự mong đợi của người nói. 
3. Kết luận 
 Có thể tìm hiểu hành động xưng hô ở nhiều giác độ khác nhau tuỳ theo đích của nhà 
nghiên cứu đặt ra. Xưng hô trong tiếng Việt chịu tác động của rất nhiều yếu tố như hoàn cảnh 
giao tiếp, quan hệ liên nhân và gắn với mục đích của mỗi cá nhân trong một cuộc tương tác cụ 
thể. Nhưng phải thừa nhận rằng xưng hô trong giao tiếp tiếng Việt gắn với tính lịch sự trong 
giao tiếp. Trong giao tiếp của người Việt hiện nay, xưng hô chịu áp lực mạnh của lịch sự 
chuẩn mực, tức là xưng hô phải tuân thủ theo những định ước của xã hội mới được đánh giá 
là lịch sự. Chiến lược xưng hô của mỗi cá nhân cũng đã xuất hiện nhưng chưa đủ mạnh để lấn 
át được chuẩn mực xưng hô trong giao tiếp. Hi vọng những nghiên cứu tiếp theo sẽ làm sáng 
tỏ thêm vấn đề nghiên cứu còn hết sức thú vị này. 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.Vũ Tiến Dũng (2003), Lịch sự trong tiếng Việt và giới tính (Qua một số hành động 
nói), Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội. 
2. Vũ Thị Thị Thanh Hương (2002), “ Khái niệm thể diện và ý nghĩa đối với việc 
nghiên cứu ứng xử lịch sự ”, Ngôn ngữ, (số 1), tr.8-14. 

No comments:

Post a Comment