Lịch sự là một nhu cầu trong các xã hội, đặc biệt trong các xã hội văn minh. Lịch sự cũng là một trong những thuộc tính của diễn ngôn, một thực tế khách quan trong giao tiếp bằng ngôn ngữ, một vấn đề ngày càng được quan tâm trong Ngữ dụng học. Bài viết này bàn về: (i) các lý thuyết ngữ dụng học về phép lich sự
Lịch sự là một nhu cầu trong các xã hội, đặc biệt trong các xã hội văn minh. Lịch sự cũng là một trong những thuộc tính của diễn ngôn, một thực tế khách quan trong giao tiếp bằng ngôn ngữ, một vấn đề ngày càng được quan tâm trong Ngữ dụng học. Bài viết này bàn về: (i) các lý thuyết ngữ dụng học về phép lich sự
(lý thuyết của R. Lakoff, G.N. Leech, P. Brown & S. Levinson; quan điểm “lịch sự là chuẩn mực xã hội”) và (ii) một số nhận xét về “lịch sự”.
2. Lý thuyết về lịch sự của Lakoff
2.0. Theo Lakoff, lịch sự là phương tiện để giảm thiểu sự xung đột trong diễn ngôn. Lakoff đề xuất hai quy tắc sử dụng ngôn ngữ: quy tắc diễn đạt rõ ràng và quy tắc lịch sự. Quy tắc lịch sự được chi tiết hóa bằng ba quy tắc cụ thể sau: (i) Không áp đặt (Don’t impose); (ii) Để ngỏ sự lựa chọn (Offer options); (iii) Hãy thể hiện tình bằng hữu (Encourage feelings of camaraderie).
2.1. Quy tắc 1 được vận dụng trong phép lịch sự quy thức (formal politeness). “Không áp đặt” ở đây là không áp đặt đối với người nghe (H - Hearer), không cản trở người nghe hành động theo ý muốn của mình. Việc người nói (S - Speaker) thể hiện lịch sự theo quy tắc không áp đặt sẽ tránh được hoặc giảm thiểu sự áp đặt bằng cách xin phép hoặc xin lỗi người nghe “H” khi buộc người nghe “H” phải làm việc gì đó mà người đó không muốn làm. Ví dụ:
a. Give me a pen.
b. Could you give me a pen?
c. I'm sorry to bother you, but can I ask you for a pen or something?
Câu (a) là câu có mức độ áp đặt cao. Câu (b) là câu khuyến lệnh, sản phẩm của hành vi ngôn ngữ gián tiếp với những đặc điểm sau: không có sự tương thích giữa cấu trúc của câu và đích ngữ dụng của phát ngôn; mức độ lịch sự của phát ngôn được củng cố thêm bằng việc sử dụng trợ động từ tình thái “could”. Câu (c) là câu được coi là câu thể hiện mức độ lịch sự cao nhất trong ba ví dụ này. Trong câu này, ngoài lời cầu khiến gián tiếp, người nói còn sử dụng cả lời xin lỗi về sự làm phiền. Phát ngôn ngày thường được sử dụng khi sự khác biệt về vị thế giữa người nói và người nghe là rất cao. Quy tắc này đòi hỏi người nói phải tránh né những vấn đề thuộc cái riêng của cá nhân như đời sống gia đình, thói quen, thu nhập, ...
2.2. Quy tắc 2 được sử dụng trong giao tiếp phi quy thức (informal politeness).
“Để ngỏ sự lựa chọn” cho người đối thoại có nghĩa là người nói phải diễn đạt, sử dụng ngôn từ sao cho ý kiến, lời thỉnh cầu của mình không có nguy cơ bị từ chối hay bác bỏ. Trong những trường hợp này, sử dụng cách nói giảm nhẹ, hàm ngôn hay các biểu thức rào đón là thích hợp. Việc truyền tin bằng hàm ý giúp người nói tránh được trách nhiệm về điều được nói ra. Ví dụ, cách nói \\"I wonder if you could help me open the window?” sẽ được ưa dùng hơn so với “Open the window!”
2.3. Quy tắc 3 của Lakoff là quy tắc về sự ứng xử lịch sự giữa những người có quan hệ thân hữu. Theo phép lịch sự thân hữu thì lối nói gián tiếp và các biểu thức rào đón không được ưa dùng. Tình thân được thể hiện qua các từ xưng hô, qua cách câu thề, qua cách nói suồng sã, ...
3. Quan điểm về lịch sự của Leech
3.0. Lý thuyết lịch sự của Leech dựa trên khái niệm “thiệt” (cost) và lợi (benefit) giữa người nói và người nghe do ngôn từ gây nên. Nội dung khái quát của nguyên tắc này là: Giảm tới mức tối thiểu những cách nói không lịch sự và tăng tới mức tối đa những cách nói lịch sự. Trong công trình “Những nguyên lý của dụng học” (Principles of Pragmatics), Leech cho rằng, lịch sự là sự bù đắp những hao tổn, thiệt thòi do hành động nói năng của người nói gây ra cho người đối thoại. Để có một phát ngôn lịch sự, cần phải điều chỉnh mức
lợi-thiệt nhằm đảm bảo sự cân bằng trong tương tác liên nhân. Hay nói cách khác, lịch sự là sự bảo toàn sự cân bằng xã hội và tình thân giữa người nói và người nghe. Leech cụ thể hóa nguyên tắc lịch sự trong sáu phương châm:
(i) Phương châm khéo léo (Tact maxim): Giảm đến mức tối thiểu những điều thiệt và tăng tối đa những điều lợi cho người.
(ii) Phương châm hào hiệp (Generosity maxim): Giảm đến mức tối thiểu những điều lợi và tăng tối đa những điều thiệt cho ta.
(iii) Phương châm tán thưởng (Approbation maxim): Giảm đến mức tối thiểu những lời chê, tăng tối đa những lời khen đối với người.
(iv) Phương châm khiêm tốn (Modesty maxim): Giảm tối thiểu việc khen ta, tăng tối đa việc chê ta.
(v) Phương châm tán đồng (Agreement maxim): Giảm đến mức tối thiểu sự bất đồng, tăng tối đa sự đồng ý giữa ta và người.
(vi) Phương châm cảm thông (Sympathy maxim): Giảm đến mức tối thiểu ác cảm, tăng tối đa thiện cảm giữa ta và người.
3.1. Các phương châm trên mang tính đặc thù cho những hành động tại lời (illocutionary act) nhất định. Cụ thể là:
- Phương châm khéo léo và phương châm hào hiệp thường được sử dụng với hành vi khuyến lệnh hoặc cam kết vì chúng cùng trực tiếp thay đổi mức
lợi-thiệt mà các tham thể giao tiếp thụ hưởng. Tuy nhiên, vẫn tồn tại sự khác biệt giữa hai phương châm này: phương châm khéo léo điều chỉnh mức lợi-thiệt của người nghe còn phương châm hào hiệp điều chỉnh mức lợi-thiệt của người nói.
Khuyến lệnh là loại hành vi ngôn ngữ được thực hiện để điều chỉnh người nghe hành động theo ý muốn của chủ thể phát ngôn. Hành động khuyến lệnh thường đem lại tác động tiêu cực tới người nghe tức là người nghe bị thiệt, và tác động tích cực tới người nói, tức người nói được lợi. Một phát ngôn như “Shut the window” là vi phạm phương châm khéo léo vì nó đem lợi cho người nói và gây thiệt cho người nghe. Cũng nội dung mệnh đề đó, nếu được truyền báo bằng một hành vi ngôn ngữ gián tiếp với sản phẩm là phát ngôn “Would you mind shutting the window, please?” lại phù hợp với phương châm khéo léo vì nó giảm thiệt và tăng lợi cho người nghe. Trong tiếng Anh và tiếng Việt, hành vi ngôn ngữ gián tiếp là một trong những con đường thể hiện tính lịch sự trong giao tiếp.
Phương châm hào hiệp là chuyên dụng đối với hành vi cam kết như mời, hứa, ... vì khi cam kết, người nói phải chịu trách nhiệm cá nhân về lời cam kết và người nghe thường được hưởng lợi từ lời cam kết của người nói. Ví dụ: I promise I'll come and see you tomorrow.
- Phương châm tán thưởng có mục tiêu là giảm thiểu những điều chê và tăng tối đa những lời khen đối với người nghe. Leech cho rằng, phương châm tán thưởng thường được sử dụng cho hành vi biểu cảm (expressive) với đích ngôn trung là bày tỏ trạng thái tâm lý phù hợp với hành động ngôn trung như vui mừng, mong muốn, ... và với nội dung mệnh đề diễn đạt một hành động hay một tính chất nào đó của người nói hay người nghe. Hành động biểu hiện (representative) có đích ngôn trung là miêu tả lại sự thể đang được nói tới. Nội dung mệnh đề là sự thể đó và sự thể này có thể được đánh giá theo các giá trị xác tín (đúng / sai) logic dựa vào bằng chứng hoặc suy luận. Ví dụ: Tom came late again yesterday. Phát ngôn khen ngợi, theo Leech, là lịch sự còn chê người khác là kém lịch sự, mặc dù lời chê không sai thực tế. Vì vậy, cần phải diễn đạt ngôn từ sao cho phù hợp với phương châm tán thưởng. Ví dụ, thay vì nói “She is ugly” thì có thể nói “She isn't beautiful”.
- Điểm chung giữa các phương châm khiêm tốn, tán đồng, cảm thông là sự tương phản giảm-tăng về việc khen-chê, về sự bất đồng - đồng ý và không thiện
cảm-thiện cảm. Sự tương phản trong phương châm khiêm tốn hướng về phía người nói; Với phương châm tán đồng và cảm thông thì sự tương phản giảm-tăng hướng về quan hệ liên nhân giữa người nói và người nghe. Hành vi biểu hiện với đích tại lời (illocutionary point) và lực tại lời (illocutionary force) trong hoạt động giao tiếp được coi là lịch sự hay không lịch sự là tuỳ thuộc vào phát ngôn cụ thể gắn với một cảnh huống giao tiếp cụ thể nào đó. Có thể nhận xét rằng, các phương châm khiêm tốn, tán đồng, cảm thông là chuyên dụng cho hành vi biểu hiện để tạo ra các phát ngôn có mức độ lịch sự cao.
Mặt khác, cũng theo Leech, có những hành động tại lời có bản chất không lịch sự như hành động ra lệnh, và đồng thời, có những hành động có bản chất lịch sự như khen & tặng. Hành động ra lệnh mang tính áp đặt, buộc người nghe phải hành động theo ý muốn của người nói, và do vậy, không lịch sự. Hành động khen và tặng có bản chất lịch sự vì nó đem lại lợi ích cho người nghe.
3.2. Các nhân tố quy định mức độ lịch sự của một hành động tại lời (illocutionary act):
(i) Mức độ lịch sự phụ thuộc vào bản chất của hành vi ngôn ngữ được thực hiện. Ví dụ, mức độ lịch sự của hành động cầu khiến thay đổi theo mức độ thiệt-lợi do hành động gây nên. Thang độ thiệt-lợi và mức độ lịch sự đối với hành động cầu khiến có thể được trình bày như sau:
(ii) Mức độ lịch sự phụ thuộc vào hình thức ngôn từ thể hiện hành vi ngôn ngữ được thực hiện. Ví dụ, sẽ lịch sự hơn so với hành vi trực tiếp “Shut the window” nếu sử dụng hành vi ngôn ngữ gián tiếp với sản phẩm là phát ngôn “Will you shut the window for me, please? ”.
(iii) Mức độ lịch sự tuỳ thuộc vào vị thế, quan hệ thân-sơ giữa người ra lệnh và người bị ra lệnh. Chẳng hạn, với phát ngôn trên đây “Shut the window”, nếu người nói có vị thế xã hội thấp hơn so với người nghe, thì sẽ được coi là bất lịch sự. Cũng với phát ngôn này, nếu người nói và nghe là chỗ thân tình, thì có thể đựoc coi là biểu hiện của lịch sự thân hữu.
Lakoff đã chỉ ra được phương thức chung nhất để đạt được tính lịch sự trong giao tiếp. Nhưng, những cách thức chung nhất đó chưa đựơc cụ thể hóa thành những chiến lược cụ thể. Leech đã đề xuất được độ đo mức lợi-thiệt, độ đo mức gián tiếp và độ đo khoảng cách xã hội cho phương châm khéo léo. So với các quy tắc của Lakoff, mô hình của Leech chi tiết hơn nhưng vẫn còn những khoảng trống cần được tiếp tục nghiên cứu: chưa có thang độ xác định cho các phương châm còn lại.
4. Lý thuyết về lịch sự của Brown & Levinson
4.0. Điểm tựa trong lý thuyết về lịch sự của Brown & Levinson là khái niệm \\"thể diện\\" (face). Khái niệm này được Erving Goffman đề cập lần đầu tiên trong ngôn ngữ học khi tác giả này xem xét mối quan hệ giữa hoạt động giao tiếp và ứng xử ngôn ngữ. Theo Goffman, thể diện là giá trị xã hội tích cực mà một người muốn người khác nghĩ mình có được trong một tình huống giao tiếp cụ thể. Brown & Levinson đã mượn khái niệm “thể diện” của Goffman để xây dựng lý thuyết về lịch sự với cách hiểu: “Thể diện là hình ảnh của bản thân trước người khác” (public
self-image)”.
Trong nghiên cứu về lịch sự với điểm tựa là khái niệm “thể diện”, Brown & Levinson đã đưa ra một cặp lưỡng phân quan trọng, xuyên suốt toàn bộ các kết quả nghiên cứu. Đó là: sự đối lập và thống nhất giữa thể diện dương tính (positive face) và thể diện âm tính (negative face).
4.1. Thể diện dương tính được Brown & Levinson xác định như là nhu cầu, mong muốn hòa đồng, gắn kết. Thể diện âm tính là mong muốn đựơc tự do hành động, là nhu cầu không muốn bị người khác áp đặt. Thể diện âm tính còn được gọi là thể diện lãnh địa (lãnh địa của cái tôi). Với sự phân biệt thể diện dương tính và âm tính, Brown & Levinson cho rằng, trong tương tác, có thể nhận diện bốn kiểu thể diện có quan hệ cộng sinh với nhau: - thể diện dương tính của người nói; - thể diện âm tính của người nói; - thể diện dương tính của người nghe; - thể diện âm tính của người nghe.
Trong tương tác bằng ngôn ngữ, hầu hết các hành vi ngôn ngữ đều tiềm tàng khả năng gây tổn hại đến thể diện của chính người nói (self) và của người khác (other). Những hành vi như vậy được gọi là hành vi đe doạ thể diện (face threatening act - FTA). Brown & Levinson đã phân loại các hành vi đe doạ thể diện thành những hành vi: (i) đe doạ thể diện âm tính của người nói (cam kết, hứa, biếu, ...); (ii) đe doạ thể diện dương tính của người nói (thú nhận, xin lỗi, cảm ơn, phê bình, ...); (iii) đe doạ thể diện âm tính của người tiếp nhận (hành vi bằng lời: khuyên; chỉ bảo quá mức, hỏi quá sâu vào đời tư, ngắt lời, nói chen ngang, ... và hành vi phi lời: vi phạm không gian, thời gian, gây ồn ào, ...); (iv) đe doạ thể diện dương tính của người tiếp nhận (chửi, chê bai, chỉ trích, chế giễu, lăng mạ,...). Thường là, một FTA đồng thời đe doạ nhiều hơn một loại thể diện. Ví dụ, với hành động hứa, người hứa bị đe doạ thể diện âm tính vì phải chịu trách nhiệm cá nhân, bị ràng buộc về lời hứa của minh. Người tiếp nhận lời hứa cũng bị ràng buộc bởi lời hứa, và như vậy, thể diện âm tính của người đó cũng bị đe doạ. Nếu người được hứa từ chối tiếp nhận lời hứa thì thể diện dương tính của cả người hứa và người được hứa đều bị đe doạ.
Giao tiếp là một loại hoạt động liên cá nhân nhằm trao đổi thông tin. Trong giao tiếp bằng phương tiện ngôn ngữ, các hành vi tại lời luôn có nguy cơ bị đe doạ. Để giữ thể diện cho cả người nhận và người nói, người nói luôn phải tìm cách làm dịu nguy cơ đe dọa thể diện bằng các hành vi giữ thể diện (face saving act - FSA).
Hành vi lịch sự là hành vi thể hiện ý thức về thể diện của người khác. Trong tương tác, ngưòi nói phải tính toán các mức độ đe doạ thể diện của hành động tại lời được dự định thực hiện để tìm cách làm giảm nhẹ mức độ đe doạ thể diện. Brown & Levinson đưa ra công thức lí giải và tiên lượng sự lựa chọn của các tham thể trong hội thoại ở những cảnh huống cụ thể như sau:
WX = P(H, S) + D(S, H) + RX
Công thức này được hiểu như sau: WX (Weighting of a face threatening act) là mức độ đe doạ thể diện mà hành động nói của người nói đe doạ thể diện của các nhân vật hội thoại. Mức độ đe doạ này tuỳ thuộc vào ba yếu tố: (i) quyền uy (Power - P) so sánh giữa người nói và người nghe; (ii) mức độ thân - sơ (Distance - D) giữa người nói và người nghe; (iii) mức độ áp đặt của hành động nói (Ranking of imposition - R) trong nền văn hóa của cả người nói và người nghe. Nếu khoảng cách giữa người nói và người nghe càng lớn, người nghe càng có nhiều quyền uy đối với người nói. Do vậy, một hành vi như thỉnh cầu chẳng hạn càng được xem là có tính áp đặt trong nền văn hóa của cả người nói và người nghe, thì người nghe càng thiên về lựa chọn một chiến lược như chiến lược nói gián tiếp hoặc im lặng để không gây ra sự đe doạ thể diện của của cả người nói và người nghe. Theo Brown & Levinson, lịch sự là chiến lược nhằm sửa đổi, giảm thiểu mức độ mất thể diện đã hoặc sẽ xảy ra trong hoạt động giao tiếp của con người. Các nhà nghiên cứu này đã đề xuất các chiến lược và tiểu chiến lược được coi là phổ quát sau: (i) nói không bù đắp (without redressive action); (ii) lịch sự dương tính; (iii) lịch sự âm tính; (iv) nói gián tiếp / nói xa (off-record); (v) không thực hiện FTA.
Sau đây là sơ đồ của Brown & Levinson về quá trình lựa chọn chiến lược giao tiếp:
|
Võ Đại Quang TS., Phòng Khoa học - Bồi dưỡng, Trường Đại học Ngoại ngữ, ĐHQ
No comments:
Post a Comment