Giữa các phạm trù bản địa và các hình thức của hành động nói chung và hành động ngôn từ nói riêng có mối liên quan rõ rệt. Bởi vì cả hai sẽ phản ánh thực chất trật tự văn hóa xã hội của cuộc sống địa phương. Có mối liên quan giữa sinh hoạt và tư duy trong các nền văn hóa: những phản ánh về hành động của con người lệ thuộc vào sự thâm nhập và cách hiểu về môi trường văn hóa xã hội của họ. Ngôn ngữ hoạt động cũng giống như tư duy ngôn ngữ học đến nay chưa được hiển ngôn hóa cho mọi người ở những vùng khác nhau trên thế giới bởi tính chất vùng miền còn thể hiện rất rõ. Cả hai chắc chắn đều có xu hướng phản ánh những quan điểm chiếm ưu thế ở địa phương về một bản chất nhất định nào đó của những con người đang sử dụng ngôn ngữ.
Có một chiều cạnh văn hóa xã hội và các phạm trù bản địa phải được phát hiện, cùng với những thuộc tính giải thích của chúng và tầm quan trọng của việc sử dụng, phạm trù này hay khác trong một tình huống. Nhân tố Chủ đề hướng vào sự tìm hiểu hệ thống tôn ti từ vựng của các ngôn ngữ được một nhóm người phát ngôn bao gồm các đặc ngữ và nội dung của mọi phát ngôn đã được quy ước hóa, để tìm kiếm chứng cớ và tri thức về điều có thể nói được. Trong một phạm vi khác, điều này mang tính chất mở rộng việc nghiên cứu ngữ nghĩa cần thiết cho mọi sự nghiên cứu lời nói. Nhân tố khung cảnh là một thành tố cơ bản và phức tạp, được coi là nền tảng cho phần lớn những thành tố còn lại. Tuy nhiên, tính thành tố (constittuecy) của nó không dễ xác định. Vì vậy, phải xét đến tính xã hội của các cá thể sử dụng “các quy tắc” và các phương tiện” của xã hội để hành động. Hành động ngôn ngữ có mối liên quan chặt chẽ đối với vai trò phản ánh của hành động. Vừa với tính cách kết quả, vừa với tính cách nguyên nhân của các hình thức xã hội của con người. Mỗi người có thể có những dạng tính cách riêng biệt và theo đó họ sẽ có phong cách giao tiếp riêng biệt, nhưng mỗi cộng đồng đều có một cơ sở đánh giá bằng những tiêu chuẩn văn hóa mang tính địa phương. Chẳng hạn mỗi dân tộc có một nghi thức chào gặp và tạm biệt riêng. Người Hán, cùng với Zai Jian (tái kiến – “Gặp lại”) có thêm lời dặn dò ( Đi chậm thôi). Người Nga cùng với lời chào là lời chúc “lên đường may mắn”. Còn người Việt chúng ta cùng với lời “đi nhé” “tạm biệt”, “về nhé” là lời chúc (“Đi (hoặc) về mạnh khỏe nhé!” ) hoặc lời hẹn, lời mời (“Khi nào rỗi lại tới chơi nhé”) .v.v…
Đề cập đến cơ sở văn hóa, chúng ta không thể không lưu tâm đến biểu tượng văn hóa. Biểu tượng là một cái gì đó mang một ý nghĩa cụ thể được các thành viên của một cộng đồng người nhận biết. Biểu tượng văn hóa có thể là một âm thanh, một đồ vật, một hình ảnh, một hành động của con người, hay bất cứ một ký tự nào đó trong một trang viết nào đó... Biểu tượng văn hóa thay đổi theo thời gian và cũng khác nhau, thậm chí trái ngược nhau trong những nền văn hóa khác nhau. Ví dụ: Gật đầu: “đồng ý” ở hầu hết các quốc gia , nhưng lại là “không đồng ý” ở Hy Lạp, Bungari, Thổ Nhĩ Kỳ; Nhướng lông mày “Đồng ý” ở Thái Lan và 1 số nước ở châu Á, lại là “Xin chào” ở Phillipines; Nháy mắt “Tôi có bí mật muốn chia sẻ với anh nè!” ở Mỹ , châu Âu ; Là dấu hiệu tán tỉnh người khác giới ở một số quốc gia khác; Mắt lim dim “Chán quá!” hay “Buồn ngủ quá!” ở Mỹ. Trong khi ở Nhật, Thái Lan và Trung Quốc lại là: “Tôi đang lắng nghe đây.”…
Ý nghĩa tượng trưng là nền tảng của mọi nền văn hóa, nó tạo cơ sở thực tế cho những cá nhân trải nghiệm trong các tình huống xã hội và làm cuộc sống trở nên phong phú.
No comments:
Post a Comment