Tất cả các phát ngôn đều xuất hiện một cách tương phản trong các ngữ cảnh, nhưng đối với nhiều từ vựng và hầu hết các đơn vị lớn hơn của lời nói, khung ngữ cảnh phải được tìm kiếm không phải trong khối dữ liệu ngôn ngữ thông thường mà là trong bối cảnh của các hành vi. Cách nghĩ về ngôn ngữ, hành động của con người và tính chủ thể đều gắn bó chặt chẽ với nhau. Để nói về cuộc sống, không những đòi hỏi các mệnh đề (propositions) phải có giá trị chân lí, mà hơn thế nữa còn đòi hỏi phải biết các ý định giao tiếp (communicative intentions) của những con người đang nói. Vì vậy, những ý nghĩa của ngôn từ của chúng ta chuyển tải không những lệ thuộc vào nội dung của những điều chúng ta nói, mà con lệ thuộc vào việc chúng ta là ai và chúng ta hi vọng người đối thoại với mình nhận thức được cái gì.
Một người phải thiết lập một cách tương hỗ những cách thức và những môi trường hành vi thích hợp với lời nói, và một tập hợp những đơn vị ngôn từ xuất hiện trong chúng; phải tìm ra các chiều cạnh của sự tương phản và những quy tắc sử dụng, cho dù là thuần túy ngữ nghĩa (sở biểu) hay liên quan đến các nội dung và chức năng khác. Các tập hợp thường không được tri giác theo quan điểm ngôn ngữ học hình thức, dù bao gồm nhiều loại khác nhau về hình thức.
Chẳng hạn, trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử có hai câu thơ sau:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Nếu xét theo hình thức ngôn ngữ hai câu thơ cực tuyệt này là vô lý hết sức! Tại sao gió lại có thể “theo lối gió”, mây lại có thể “theo đường mây” được cơ chứ? Quy luật tự nhiên là gió thổi mây bay cơ mà!
Để hiểu và tiên đoán trước hành vi, các ngữ cảnh mang một ý nghĩa tri nhận chúng ta phải hiểu cách sử dụng một hình thức ngôn ngữ nhận diện được nhiều ý nghĩa. Một ngữ cảnh có thể ủng hộ nhiều ý nghĩa. Khi một hình thức được sử dụng trong một ngữ cảnh, nó loại trừ những nghĩa có thể có đối với ngữ cảnh đó trừ những nghĩa mà hình thức đó có thể chỉ ra; ngữ cảnh này không quan tâm đến những nghĩa có thể có đối với hình thức này trừ những nghĩa mà ngữ cảnh đó có thể ủng hộ. Nghĩa thực tế tùy thuộc vào sự tương tác của hai yếu tố trên.
Một điểm khác cũng quan trọng không kém đó là vai trò tri nhận của lời nói không phải là tất cả hay không gì cả, mà là vấn đề cái gì, ở đâu và khi nào. Về mặt tri nhận, lời nói quan trọng trong một số hoạt động này hơn là trong các hoạt động khác, ở một số thời điểm này hơn là các thời điểm khác, đối với một số người này hơn là các người khác, đối với một số xã hội này hơn là một số xã hội khác.
Mối quan tâm tới lời nói trong những bối cảnh của hành vi dẫn tới việc phân tích những mô hình cá nhân trong những cảnh huống bản địa cụ thể. Nếu dựa vào một ngữ pháp, chúng ta không thể hiểu được vai trò của các tập quán lời nói trong hành vi ngày nay, chúng ta cũng không thể làm như vậy khi dựa vào một cảnh huống thực nghiệm khác lạ đối với văn hóa. Chúng ta cũng không thể đánh giá dựa theo những miêu tả được phân loại bởi các tập quán lời nói này và những tập quán khác. Sự phân tích cần phải có căn cứ. Chúng ta cũng cần nhận biết những mô hình lời nói sẵn có trong một bối cảnh cụ thể nào đó. Và, chúng hoạt động như thế nào, ở đâu và khi nào? Nguyên tắc nghĩa là sự sử dụng một cách có hiệu lực khi chúng ta nghiêm túc nghiên cứu vai trò của những tập quán ngữ nghĩa trong hành vi.
Sự miêu tả những tập quán ngữ nghĩa sẽ phụ thuộc vào các ngữ cảnh sử dụng để định rõ những khuôn khổ quan yếu, những tập hợp các đơn vị và các chiều cạnh của sự tương phản. Hơn nữa, các cá nhân và các nhóm có thể bất đồng về hành vi là kết quả thông qua cách sử dụng ngôn từ trung gian. Vì vậy, phân tích vai trò của lời nói trong hành vi tri nhận dẫn đến việc phân tích bối cảnh dân tộc học của lời nói.
Đặc biệt là hành vi biểu cảm. Có một phương diện tri nhận của hành vi biểu cảm trong chừng mực mà nó tiền giả định sự chia sẻ một bộ mã, sao cho các tập quán ngữ nghĩa không làm cạn kiệt hoặc suy giảm vai trò tri nhận của lời nói. Tương tự, có một phương diện biểu cảm trong phong cách nhận thức của một cá nhân hay một nhóm người, và nhìn chung, tất cả các hiện tượng lời nói đều có thể được một người nghe hiểu như những hiện tượng biểu cảm của người nói. Lời nói cũng là phương diện của nhân cách.
Có những sự khác biệt rất rõ rệt trong hành vi ngôn ngữ cá nhân. Nếu chúng ta mở rộng tầm nhìn ra ngoài phạm vi thông thường của những mô tả ngôn ngữ học đến danh mục đầy đủ của những tập quán ngôn ngữ truyền thống, đến những thói quen ngôn ngữ tái diễn đều đặn và những đặc trưng mang tính tình thế của hành vi ngôn ngữ hàng ngày, thì những biến đổi trong sự nắm vững của cá nhân sẽ rất rõ rệt.
Con người không chỉ sống trong mỗi một thế giới khách quan của các sự vật, cũng không chỉ sống trong thế giới của các hoạt đông xã hội như vẫn thường nghĩ, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào một ngôn ngữ cụ thể vốn là phương tiện giao tiếp trong xã hôi của họ. sẽ chỉ là ảo tưởng nếu cho rằng con người có thể thích nghi với thực tại về cơ bản không cần sử dụng ngôn ngữ và rằng ngôn ngữ chỉ đơn thuần là một phương tiện thứ yếu trong việc giải quyết các vấn đề cụ thể của giao tiếp hay tư duy. Sự thật của vấn đề ở đây là cái thế giới “thực” ấy phần lớn được in hình một cách vô thức trên nền những thói quen của ngôn ngữ cộng đồng đã làm cho chúng ta có những cách lựa chọn như thế. (Edward Sapir dẫn theo [94, tr.67]
Đã từ lâu các nhà sinh học và tâm lí học đã suy đoán rằng sở dĩ thế giới phát triển rất đa dạng là bởi thuộc tính sinh học các loài khác nhau và do có các tác nhân kích thích giác quan cũng khác nhau. Nhưng vì có khả năng thần kinh nên các loài cảm nhận được tất cả những sự vật hiện tượng đã và đang diễn ra
No comments:
Post a Comment