Friday, December 27, 2013

Ngôn ngữ - xã hội

Các nhân tố xã hội ảnh hưởng lớn đến sự tiến hóa của ngôn ngữ; vai trò của nó là mức độ tiếp xúc hay chồng chéo giữa các giá trị xã hội và cấu trúc của ngôn ngữ. Tất nhiên cấu trúc ngôn ngữ và cấu trúc xã hội không phải lúc nào cũng tương thích. Rất nhiều các quy tắc ngôn ngữ không có mối quan hệ song phương với các giá trị xã hội; chúng là một bộ phận của cơ chế ngôn ngữ, đòi hỏi sự tinh tế mà người nói cần có khi sử dụng để diễn đạt các ý định phức tạp của mình bằng các tín hiệu ngôn ngữ theo tuyến tính. Vì thế kỹ năng giao tiếp có tiêu chuẩn xã hội chung và các thành viên có được kỹ năng giao tiếp chính là do sự trải nghiệm từ đời sống xã hội. Các cá thể giao tiếp không thể quay lưng với các tiêu chuẩn chung này mà phải vừa học, tiếp thu, đồng thời vừa góp phần bổ sung, thanh lọc để hoàn chỉnh kỹ năng. Sở dĩ có sự khác nhau về kỹ năng giao tiếp ở từng cá nhân là bởi liên quan đến thái độ, nhận thức, khả năng sử dụng cũng như cách lập luận về những tiêu chuẩn chung mang tính xã hội này của mỗi cá thể. Khi đánh giá một lời nói, một câu nói “ổn hay không ổn” là nhằm chỉ ra rằng, lời nói của người đó khi phát ra có phù hợp với ngữ cảnh và tiêu chuẩn xã hội hay không.

Các biến thể gần hơn với cấu trúc bề mặt thường là tiêu điểm của sự tác động xã hội. Thực tế là các giá trị xã hội chỉ được quy cho các quy tắc ngôn ngữ khi có biến thể. Người nói thường không sẵn sàng chấp nhận rằng hai cách diễn đạt khác nhau, thực tế là có cùng một nghĩa và họ thường có xu hướng quy các nghĩa khác nhau cho chúng. Nếu một nhóm người nói nào đó sử dụng một biến thể ngôn ngữ cụ thể nào thì các giá trị xã hội quy cho nhóm đó cũng sẽ được chuyển sang biến thể sẵn có. Nếu có một tập hợp thống nhất các quy tắc ngôn ngữ được dùng để diễn đạt một số nghĩa nhất định thì ngôn ngữ có thể được xem như một công cụ trung lập. Nhưng trong quá trình biến đổi, dứt khoát sẽ có các quy tắc khả biến và các vùng biến thể này có xu hướng len lỏi khắp hệ thống theo kiểu làn sóng lan tỏa. Điểm xuất phát của một biến đổi ngôn ngữ cụ thể nào đó thường nằm trong một nhóm xã hội thu nhỏ duy nhất. Nếu nhóm xã hội này càng lớn thì sự cộng hưởng sẽ tăng theo cấp số nhân. Và, với các thế hệ nối tiếp nhau thì dạng mới sẽ có hiệu ứng lan tỏa ra vòng ngoài rộng hơn và đi đến các nhóm khác.
Ngôn ngữ có những quy tắc khả biến (variable rules) mà việc sử dụng chúng nhằm cung cấp những chứng cớ quyết định về các vấn đề của cấu trúc ngôn ngữ và vai trò của chúng trong sự tiến hóa của ngôn ngữ. Nhưng ngôn ngữ cũng có rất nhiều quy tắc bất biến: đó là những quy tắc mang tính phạm trù (categorical rules). Có một số lĩnh vực của phân tích ngôn ngữ mà ngay cả những bước đầu tiên tìm hiểu các quy tắc bất biến cơ bản cũng không thể thực hiện được nếu chúng ta không chú ý đến bối cảnh xã hội của sự kiện ngôn từ.
Điều đặc biệt ngôn ngữ học khẳng định tính xã hội của sự nói năng. Chức năng cơ bản của lời nói là truyền đạt ý nghĩa của từ ngữ và ý nghĩa ngữ pháp của chung xã hội. Đồng thời, trong hoàn cảnh giao tiếp cụ thể, lời nói còn truyền đạt một số thông tin mang tính đặc thù, biểu thị đặc trưng tập quán xã hội của người nói. Ví dụ có một phát ngôn:
-         “Bây giờ là 10 giờ rồi”
Nếu tách ra khỏi văn cảnh mà xét ở mặt cấu trúc thì đây là một câu đúng về cấu trúc ngữ pháp tiếng Việt, chứa nội dung thông báo về thời gian của một hiện tại bây giờ là “10 giờ”. Nhưng thực tế ngôn ngữ trong giao tiếp không đơn giản như vậy. Ngữ nghĩa của một phát ngôn nó còn liên quan đến các yếu tố: Chủ thể giao tiếp (phát ngôn là của ai?), thời gian và không gian (Phát ngôn nói trong hoàn cảnh nào?), khách thể giao tiếp (phát ngôn nói với ai, nói cho ai nghe).
Nếu như phát ngôn này là của một người khách đi trên đường, trả lời một người khách qua đường khác khi anh này hỏi: “Xin hãy cho biết bây giờ là mấy giờ rồi ạ?”. Thì nội hàm của nó chứa một phát ngôn thông báo về một mốc thời gian cụ thể. Nhưng nếu phát ngôn đó là của một cô gái, nói với một chàng trai, khi chàng trai đến chơi nhà và đã ngồi khá lâu, thì nó lại không còn là một thông báo nữa mà lại là một phát ngôn nhắc nhở…
 Như vậy, ứng với từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể, chủ thể - người giao tiếp sẽ sử dụng các phát ngôn phù hợp, và khách thể giao tiếp phải hiểu nội dung của phát ngôn trên theo từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.

No comments:

Post a Comment