Trong tác phẩm nghệ thuật, ngôn từ bao giờ cũng đảm nhận chức năng là phương tiện, chất liệu để tạo ra những mạch truyền cảm; nó bao giờ cũng tìm sức sống của mình từ chất liệu đích thực gắn với hiện tượng muôn màu muôn vẻ của cuộc sống. So với ngôn từ tự nhiên thì ngôn từ nghệ thuật có hoạt động mới, giàu tiềm năng phát sinh các sắc thái, các ý nghĩa tâm lý một cách độc đáo. Đồng thời trong khi hướng tới những cung bậc khác nhau để tạo thành hình tượng, ngôn ngữ nghệ thuật luôn luôn kết tinh từ bề dày truyền thống văn hóa và cái đẹp từ bản thân nó.
Thơ ca là một mạch hệ thống ngôn từ được xác lập nhuần nhị từ ngôn ngữ. Thơ ca thuộc hệ thống “lời nói gây cảm xúc”, một hình thức gây cảm xúc vi diệu nhất. Thơ ca lại là lời nói có nhịp điệu, âm hưởng và sắc thái riêng – nhịp điệu và âm hưởng này dựa trên cơ sở của ngôn ngữ thực tế. Ngôn ngữ thơ là thứ ngôn ngữ có tính cách điệu, khác biệt so với ngôn ngữ hàng ngày và các loại ngôn ngữ nghệ thuật khác.
Ngôn ngữ thơ là một chuỗi đặc trưng về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp nhằm biểu trưng hóa, khái quát hóa hiện thực khách quan theo cách tổ chức riêng.
Thơ là một loại hình nghệ thuật ngôn ngữ cô đọng, súc tích nhất về từ ngữ và hình ảnh. Mỗi từ trong câu thơ có sức mạnh tiềm tàng, chứa đựng cái đẹp đẽ, cái tinh tế, cái sâu sắc. Chính vì thế ngữ nghĩa trong thơ ca phong phú hơn nhiều so với ngữ nghĩa trong ngôn ngữ giao tiếp đời thường và trong văn xuôi. Từ trong ngôn ngữ thơ tiếng Việt thường đa nghĩa. Khi sử dụng từ ngữ trong thơ không chỉ ở nghĩa đen, nghĩa gốc, nghĩa ban đầu mà nó còn có ý nghĩa mới tinh tế, thậm chí cùng một lúc nó mang nhiều ý nghĩa mà người ta gọi là nghĩa chuyển, nghĩa bóng hay nghĩa biểu trưng, ngôn ngữ trong thơ ca còn bao hàm cả tính ước lệ. Trong từ ngữ của thơ có những từ ngữ được sử dụng bởi nhiều phép chuyển nghĩa nhưng chủ yếu là ẩn dụ. Hoán dụ được dùng cả trong thơ và văn xuôi vì nó chủ yếu chuyển hóa tên gọi của đối tượng này để gọi đối tượng kia theo quy luật liên tưởng tiếp cận có liên quan nhân quả.
Và từ đặc biệt mang âm hưởng riêng, sắc thái riêng của bài thơ, là điểm ngời sáng trong bài thơ. Nó là sức nặng của bài thơ; từ ngữ trong thơ chứa đựng nhiều tiếng vang của cảm giác.
Ngôn ngữ thơ là một thứ ngôn ngữ bộc lộ thế giới chủ quan thiên về thế giới ấn tượng cảm xúc, cảm giác, những mặt biểu cảm thường đan chéo nhau chiếm những cấp độ nghĩa thiếu quan hệ nội tại trên bề mặt cú pháp. Thơ là nghệ thuật về thời gian; song song trong tư tưởng; chức năng mỹ học chiếm ưu thế trong các thông báo thơ, đồng thời với chức năng giao tiếp làm cho thông báo trong thơ đa nghĩa huyền bí vô cùng. Thơ hay là đạt tới mức “ý tại ngôn ngoại”. Càng hàm súc thì thơ càng thể hiện giá trị tiềm tàng của nó.
Ngôn ngữ thơ là một thứ ngôn ngữ ở đó trở nên duy nhất, tự chiếu sáng một “Ngôn ngữ kim cương”. Trong sự cố gắng muôn thưở là vượt lên chính mình, ngôn ngữ tìm thấy trong thơ là phương tiện tối ưu để lưu giữ - truyền đạt thông tin về bảo vệ môi trường giao tiếp. Và như vậy con người đã có thêm ngoài ngôn ngữ giao tiếp thông thường ra, một mã nghệ thuật nữa có khả năng lưu giữ an toàn và truyền đi không chỉ đầy đủ chính xác nội dung giao tiếp phải duy trì mà con truyền đi một cách rất riêng biệt, đặc sắc. Điều đó giải thích vì sao không có nền văn hóa nào không biết đến thơ, đồng thời cũng giải thích vì sao người ta khẳng định rằng sự sinh tồn thơ ca không kém gì sự sinh tồn của mỗi dân tộc. Bảo vệ ngôn ngữ dân tộc cũng là một cách bảo vệ dân tộc. Học giả Phạm Quỳnh từng nhận định: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”…
No comments:
Post a Comment